Nhận thức Phật Giáo (Phần 4)

Thứ ba - 01/04/2014 00:59 - Đã xem: 5126

Nhận thức Phật Giáo (Phần 4)

NHẬN THỨC PHẬT GIÁO (Giáo dục hạnh phúc mỹ mãn) (Phần 4) Người giảng: Lão Pháp sư Tịnh Không Địa điểm: Boston Úc Châu (iii) Vị thứ ba là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi đại biểu cho trí tuệ, cũng chính là nói chúng ta tu học, cùng ở chung với tất cả đại chúng thì chúng ta phải tận hiếu. Tu trì của chúng ta nhất định phải căn cứ vào lý trí, không được làm việc theo cảm tình. Bồ Tát Văn Thù đại biểu lý tánh, Ngài là trí tuệ, là lý luận, không phải là cảm tình. Cảm tình thì là phiền não, có mê hoặc; lý tánh là giác, sau cùng đạt đến cứu cánh, đó là hiếu từ lý trí.
  1. (iv) Vị thứ tư là Bồ Tát Phổ Hiền

Ứng dụng ngay trong cuộc sống thường ngày, ứng dụng ngay trong công việc của chúng ta, ứng dụng ngay trong đối nhân xử thế tiếp xúc mọi vật, đó gọi là Bồ Tát Phổ Hiền. Phổ là phổ biến, bình đẳng phổ biến.Ta tốt, ta cũng hy vọng tất cả mỗi chúng sanh đều tốt, không ai không tốt, đó gọi là Phổ Hiền. Bồ Tát Phổ Hiền viên mãn rồi thì là thành Phật. Bồ Tát Phổ Hiền được nói trong Kinh Hoa Nghiêm, còn hiện tại thì chúng ta chọn lấy Kinh Vô Lượng Thọ. Người xưa nói, Kinh Vô Lượng Thọ chính là trung bổn của Kinh Hoa Nghiêm. Số lượng của Kinh Hoa Nghiêm rất lớn, không luận là trên lý luận hay trên sự thật (sự thật chính là đời sống của chúng ta), mỗi ngày chúng ta phải nên làm việc, mỗi ngày phải nên đối nhân xử thế tiếp xúc mọi vật như thế nào, những việc vụn vặt đều giảng giải rất tường tận. Đây cũng chính là thể hiện, kinh điển của Phật là dạy bảo chúng ta làm thế nào để trải qua ngày tháng, làm thế nào trải qua đời sống được mỹ mãn, đời sống được hạnh phúc, đời sống hoàn toàn tương ưng với chân tướng của vũ trụ nhân sanh.Đời sống như vậy mới mỹ mãn. Điều này cũng chính là nói, trải qua đời sống như của Phật Bồ Tát mới chính là đời sống đại viên mãn. Phật pháp là dạy cho chúng ta những thứ này, đây mới là pháp đại thừa viên mãn chân thật cứu cánh. Như vậy thì trong Phật pháp làm gì có mê tín chứ?

Trước tiên chúng ta đem ý nghĩa biểu pháp của tạo tượng và danh hiệu của Phật, Bồ Tát giải thích cho rõ ràng, nếu không thì khi học đích thực là mê tín, nhất định bạn sẽ không có được cái tốt chân thật trong Phật pháp.Đây là lề lối thứ lớp vào cửa để tu tập. Hiếu thân, tôn sư, từ bi, lý trí, bình đẳng, chúng ta phải đồng thời tu, nhưng trong đồng thời tu có thứ lớp, trong thứ lớp có đồng thời. Điều này là trên Kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Hành bộ bất ngại viên dung, viên dung bất ngại hành bộ”. Hành bộ chính là có thứ lớp, thí dụ bạn từ hiếu thân trước, lại nâng lên đến đại từ đại bi, lại bồi dưỡng lý trí, lại bồi dưỡng một tâm lượng rộng lớn, đó là có thứ lớp. Tuy có thứ lớp nhưng cũng có thể có mấy khóa mục đồng thời tu học, như phía trước đã nói có năm khóa mục, một chính là năm, năm chính là một, bất cứ thứ nào nó cũng đều gom nhiếp trong đó. Trong Hiếu thân bao hàm có Từ Bi, có lý tánh, có trí tuệ, trong trí tuệ hàm chứa có Hiếu thân, có từ bi, Đây chính là ý nghĩa hành bộ không ngại viên dung, viên dung không ngại hành bộ.

Sau khi thông suốt ý nghĩa đại thể của Phật pháp rồi, chúng ta muốn hỏi là cụ thể trong cuộc sống thường ngày chúng ta phải làm như thế nào? Đây là giáo học chân thật của Phật pháp mà trong tất cả kinh luận đều có. Cho nên tu học kinh điển, thực tế thì chỉ một bộ kinh là đủ rồi, vì trong mỗi một bộ kinh, những ý nghĩa này thảy đều đầy đủ. Vấn đề là bạn thật phải xem hiểu được nó, bạn phải có thể làm được thì mới hữu dụng.

Tịnh độ tông

Mục tiêu tu học của Tịnh Độ Tông chúng ta là cầu sanh Tịnh Độ, đi gặp Phật A Di Đà. Phật A Di Đà đã làm hiếu đạo đến cứu cánh viên mãn. Các vị thử nghĩ xem, nếu chúng ta không hiếu thuận cha mẹ thì bạn có thể đi đến thế giới Cực Lạc hay sao? Bạn không thể nào đi được, Phật A Di Đà đại từ đại bi cũng không thể đem một người bất hiếu cha mẹ, cho dù bạn mỗi ngày niệm A Di Đà Phật, một ngày niệm mười vạn danh hiệu Phật, nịnh bợ Phật A Di Đà, Phật A Di Đà cũng không thể vì tình riêng mà tiếp dẫn bạn. Phật A Di Đà dạy bảo chúng ta như thế nào? Tịnh Độ có ba kinh một luận, đây là kinh điển căn bản của Tịnh Độ. Ba kinh chính là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, đây là Tịnh Độ ba kinh. Trong ba kinh lấy Kinh Vô Lượng Thọ làm thứ nhất, Kinh Vô Lượng Thọ là khái yếu của Tịnh Tông, là khái luận của tịnh tông. Kinh Vô Lượng Thọ đã đem thế giới Tây phương Cực Lạc giới thiệu cho chúng ta rõ ràng tường tận. Còn Kinh Quán Vô lượng Thọ là giáo trình bổ sung của Kinh Vô Lượng Thọ, lý luận đối với Tây phương Tịnh Độ trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có bổ sung nói rõ những điểm trọng yếu: (i) Phương pháp vãng sanh, mười sáu phép quán là đưa ra phương pháp, giảng nói phương pháp rất rõ ràng; (ii) Trên kinh Vô Lượng Thọ chỉ giảng ba bậc vãng sanh, trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ thì giảng chín phẩm rất tỉ mỉ; (iii) Đạo lý của nhân quả, niệm Phật là nhân, vãng sanh thành Phật là quả, những đạo lý này đã bổ sung giảng nói rất tường tận.

Phật Thuyết A Di Đà Kinh là tiểu bổn. Nội dung của quyển kinh nhỏ này là khuyên chúng ta phải tin tưởng, phải phát nguyện, phải cầu sanh Tịnh Độ. Trong quyển kinh nhỏ này, Thích Ca Mâu Ni Phật đã bốn lần khuyên bảo đối với chúng ta, thật sự là hết lời khuyên bảo, một lần rồi hai lần, hai lần rồi ba lần, ba lần rồi bốn lần, đã bốn lần khuyên bảo chúng ta, cơ hội này không thể để lỡ qua, lỡ qua rồi thì thật đáng tiếc. Tu học của tịnh tông chúng ta chính là y theo ba bộ kinh này. Nhất luận gọi là “Vãng sanh luận”, Vãng sanh luận là do Bồ Tát Thiên Thân làm, hay nói cách khác, bộ sách này chính là Bồ Tát Thiên Thân nói là chính Bồ Tát đã y theo Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lương Thọ tu học vãng sanh, sau đó đưa ra kinh nghiệm của Ngài cho chúng ta làm tham khảo tu học, quyền này là nói ra chính Ngài tu hành vãng sanh. Ngày nay Tịnh Độ có ngũ kinh rồi, đã thêm vào được hai kinh. Hai kinh này từ đâu mà ra vậy?

Một kinh được đưa thêm vào khoảng năm Hàm Phong triều nhà Thanh. Hàm Phong cách với hiện tại chúng ta không xa lắm, các vị đều biết cuối trào nhà Thanh có Từ Hi Thái hậu, Từ Hi chính là phi tử của Hàm Phong, vào lúc đó bà chưa phải là Hoàng hậu, là phi tử của Hàm Phong. Khoảng năm Hàm Phong, có một vị cư sĩ tên Ngụy Nguyên, vị này tu Tịnh Độ, rất thông đạt đối với Phật pháp, ông đem quyển sau cùng của Kinh Hoa Nghiêm là phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Thập Đại Nguyện Vương Đạo Quy Hướng Chúng Sanh Về Cực Lạc đưa vào phía sau Tịnh Độ ba kinh, lúc đó trở thành Tịnh Độ bốn kinh. Cho nên nếu như các vị đọc lại trong chú sớ của người xưa có nhắc đến Tịnh Độ bốn kinh, đó chính là nói bốn kinh này. Ngài đem phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện xếp vào trong kinh luận của Tịnh Độ là có đạo lý gì không vậy? Rất có đạo lý. Chúng ta đọc Kinh Vô Lượng Thọ thì liền biết được, bạn xem trong phẩm thứ hai trong Kinh Vô Lượng Thọ là phẩm Đức Tôn Phổ Hiền. Trên văn kinh Phật nói với chúng ta: “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền Đại sĩ chi đức”. Phổ Hiền Đại sĩ chi đức chính là mười đại nguyện vương, do đây có thể biết, Tịnh Độ cùng Kinh Hoa Nghiêm có quan hệ rất mật thiết.

Có thể nói Kinh Hoa Nghiêm là giảng lý luận, giảng phương pháp, còn Tịnh Độ chân thật chính là tu hành chứng quả của Kinh Hoa Nghiêm. Do đó chúng ta nhận biết thế giới Tây phương Cực Lạc chính là pháp giới của Phổ Hiền Đại sĩ, hễ người sanh đến thế giới Tây phương Cực Lạc đều là Bồ Tát Phổ Hiền. Phía trước đã nói qua với các vị, Bồ Tát là tên chung, không phải để chỉ một người, chỉ cần là người tu mười đại nguyện vương thì người này chính là Bồ Tát Phổ Hiền. Mỗi một người ở thế giới Tây phương Cực Lạc thì trên là Phật A Di Đà, dưới tất cả đều là Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Vương, cho nên đó là thế giới Phổ Hiền, thảy đều là Bồ Tát Phổ Hiền. Giống như trường học vậy, năm thứ nhất, năm thứ hai, đến năm thứ 51, Bồ Tát có 51 ngôi thứ, lớn hay nhỏ đều là Bồ Tát Phổ Hiền, quá tuyệt diệu. Trên Kinh Hoa Nghiêm Phật nói với chúng ta: “Bồ Tát không tu hạnh Phổ Hiền không thể thành Phật”, cho nên kinh Hoa Nghiêm là đệ nhất kinh trong cửa Phật chúng ta, cho dù đó là một tông một phái nào cũng đều thừa nhận Kinh Hoa Nghiêm là căn bản pháp luân, Kinh Hoa Nghiêm là khái luận cuả Phật pháp, không luận ở sự hay lý đều giảng được rất rõ ràng, sau cùng còn thêm phần biểu diễn cho chúng ta xem, đó là Thiện Tài Đồng Tử 53 lần tham học.

53 vị thiện tri thức đại biểu cho cái gì? Chính là xã hội hiện tại của chúng ta, xã hội ngày nay. Bất luận nam nữ, già trẻ, các ngành các nghề, chính ngay nơi bản thân họ, họ đang học cái gì, họ đang làm công việc gì, họ đang sống trong hoàn cảnh ra sao, chính ngay hoàn cảnh sinh hoạt của chính họ đều là đang tu hạnh Phổ Hiền. Việc này chân thật gọi là lợi ích vô biên. Thực tế mà nói kinh thì quá lớn, hiện tại đã không còn người giảng nữa. Khi tôi ở miền nam Đài Loan, có mấy vị pháp sư gặp tôi đều thường khuyên tôi, yêu cầu tôi giảng Kinh Hoa Nghiêm. Họ nói, nếu ông không giảng thì e rằng về sau sẽ không có người giảng. Lời nói này tôi cũng biết, duyên chưa chín muồi, tôi rất muốn giảng một lần nhưng duyên vẫn chưa đủ, cơ duyên chưa chín muồi. Kinh này giảng qua một lần, mỗi ngày giảng hai giờ thì phải giảng bốn năm mới có thể giảng viên mãn. Hiện tại tôi chưa có cách gì tìm được một nơi có thể ở đó bốn năm không động. Hiện tại thì chưa được, nơi tìm tôi thì quá nhiều, tôi phải bôn ba khắp nơi, cho nên giảng kinh này tương đối khó khăn. Thế nên lần này ở Singapore giảng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, tôi dự định thời gian là bốn tháng, đại khái sắp gần bốn tháng thì có thể giảng viên mãn, tương đối là không dễ dàng, hiện tại kinh đã giảng sắp gần ba phần tư, vẫn còn một bộ nhỏ chưa giảng xong. Tôi ở đây giảng xong rồi thì rấp rút đến Singapore để giảng cho xong bộ kinh đó, đại khái khi trở lại Singapore thời gian sắp gần một tháng có thể giảng được viên mãn.

Cho nên các vị phải nên biết, một bộ kinh lớn giảng được viên mãn là việc tương đối không dễ dàng, nhất là bộ kinh như Kinh Hoa Nghiêm mà giảng viên mãn thì quá hi hữu, rất khó được. Trung Quốc từ xưa đến nay một người một đời có thể nghe được bộ Kinh Hoa Nghiêm thì đó là nhân duyên vô cùng hi hữu. Ngày trước, theo lịch sử Phật giáo Trung Quốc chúng ta, Đại sư Thanh Lương là một trường hợp thật là hi hữu khó được, cả đời Ngài đã giảng Kinh Hoa Nghiêm 50 lần. 50 lần phải giảng như thế nào vậy? Một ngày Ngài giảng tám giờ đồng hồ, một năm giảng một bộ, giảng hết 50 năm, đại sư sống đến hình như một trăm ba mươi mấy tuổi, rất thọ. Thời trước nghe kinh phải đăng ký, đến ở trong Chùa Miếu, cư sĩ tại gia cũng như vậy, phải vào Chùa Miếu đăng ký nghe kinh, tức là ghi danh tôi muốn nghe bộ kinh này, trong chùa cũng phân cho bạn ở một nơi, ăn uống ở chùa, đại khái cũng sẽ phân một ít công việc cho bạn làm, cũng không thể ở không, giao một ít công việc để bạn làm công quả, ở một năm thì nghe xong được một bộ kinh, bạn muốn nghe thêm một lần nữa thì cũng được.

Cho nên tu hành thời trước, chúng ta xem thấy trong lịch sử của Phật giáo, ở trong truyện ký, không luận xuất gia tại gia, luôn luôn là ba năm đến năm năm thì họ liền khai ngộ, thì có thành tựu. Hiện tại học Phật đến mấy mươi năm, học cả đời vẫn là mê hoặc điên đảo, nguyên nhân gì vậy? Sức huân tập quá ngắn cho nên khó thành tựu. Bạn xem những đạo tràng trước đây, mỗi một ngày nghe kinh tám giờ đồng hồ, Tự Viện là trường học, người xuất gia là thầy giáo, ngày ngày giảng kinh nói pháp, nghe kinh tám giờ đồng hồ, cửa giải khai trí tuệ, lại thêm niệm Phật tám giờ đồng hồ, một ngày 16 giờ đồng hồ đều không có vọng tưởng, đều không khởi tham sân si mạn, tâm của họ làm sao mà không thanh tịnh chứ? Cứ như vậy ngày ngày không gián đoạn, huấn luyện như vậy, huấn luyện cho bạn ba năm đến năm năm thì bạn tự nhiên liền được định, được Tam Muội, được khai ngộ. Hiện tại thì không thể, hiện tại đạo tràng này là đạo tràng tốt, ngày ngày giảng kinh, mỗi ngày giảng kinh hai giờ đồng hồ, chúng ta mới giảng có một tiếng rưỡi đồng hồ, cứ cho là đã nghe hai giờ, nhưng trong 24 giờ một ngày vẫn còn 22 giờ khởi vọng tưởng, bạn nói xem có ích gì chăng? Vậy cũng vẫn chưa ích gì. Ngày trước trong 24 giờ thì 16 giờ tâm của họ ở trong đạo, vậy mới hữu dụng, cho nên người thời trước thành tựu được như vậy, chúng ta xem thấy cảm thấy kỳ lạ nhưng thực tế có đạo lý của họ. Vì vậy thời gian hai giờ đồng hồ thì không đủ, cần phải tập trung toàn bộ tinh thần chăm chú ở trong đây.

Mấy năm gần đây, tôi thấy được ở Mỹ, ở Đài Loan, ở Singapore, ở Trung Quốc đại lục, một số ít người họ đem băng ghi âm thuyết giảng của tôi viết thành văn tự, có lúc một ngày cũng đã dùng thời gian mười mấy giờ đồng hồ, đem băng thu âm nghe đi nghe lại, từng câu từng câu viết ra, viết xong một bộ Kinh Vô Lượng Thọ thì họ đã có chút công phu. Viết ra được một bộ Kinh Vô Lượng Thọ cũng phải mất thời gian hơn một năm, từ nơi băng ghi âm, từng chữ từng chữ viết ra, khi nghe qua thì họ sẽ không nhớ được, viết ra một câu phải nghe lại lần nữa, sau đó nghe lại, tập trung toàn bộ tinh thần vào trong đó, họ cũng không khởi vọng tưởng, cũng không sanh phiền não, họ dùng phương pháp như vậy. Tôi biết được số ít mười mấy người, họ nói với tôi rằng họ chân thật là khế nhập, do đó thời gian huân tập phải dài thì tu học của chúng ta mới có thể đạt đến thọ dụng chân thật.

Trong ngũ kinh còn một kinh nữa là “Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương”, đây là một phẩm kinh văn trong Kinh Lăng Nghiêm, tuy là không dài, 244 chữ, còn ngắn hơn so với Bát Nhã Tâm Kinh (Bát Nhã Tâm Kinh là 260 chữ). Phẩm kinh văn này là do Đại sư Ấn Quang đưa vào là rất gần đây. Mọi người đều biết là vào đầu năm dân quốc, Đại sư Ấn Quang đem phẩm Kinh Lăng Nghiêm này để vào phía sau của Tịnh Độ bốn kinh, nên biến thành Tịnh Độ năm kinh. Hiện tại chúng ta lưu thông quyển này. Có còn cần thêm kinh nào nữa hay không? Tôi nói cho các vị nghe là không cần nữa, kinh điển của Tịnh Độ tông đã đạt đến cứu cách viên mãn.

Khi tôi còn trẻ học kinh ở Đài Trung, tôi chuyên học Kinh Lăng Nghiêm. Tôi học kinh với Lão sư Lý là lấy Kinh Lăng Nghiêm làm chủ chốt. Kinh Lăng Nghiêm tôi đã giảng rất nhiều lần, chí ít có đến sáu bảy lần, thế nhưng chưa phát hiện cái chương quan trọng đến như vậy, không phát hiện ra.Đến khi xem Tịnh Độ ngũ kinh rồi thì mới nghĩ ra được. Đây là Đại sư Ấn Quang đã làm nhắc nhở cho tôi. Tôi quay đầu xem lại Kinh Lăng Nghiêm thì thấy phẩm kinh này hoàn toàn khác, tôi phát hiện Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương, 244 chữ này là tâm kinh của Tịnh Độ tông chúng ta, không những là tâm kinh của Tịnh Độ tông, có thể nói giá trị của phẩm kinh này vượt qua cả Bát Nhã Tâm Kinh, có thể đại biểu tâm kinh cho toàn đại tạng giáo, cũng chính là tinh hoa toàn bộ kinh điển của Thích Ca Mâu Ni Phật.Chân thật là không thể nghĩ bàn. Đại sư Ấn Quang không phải là người thông thường, có thể ở trong toàn đại tạng giáo đem một đoạn kinh văn này đưa ra trở thành trung tâm của toàn kinh tạng, tầm nhìn này không phải là người thông thường có thể có được. Như vậy là kinh điển của Tịnh tông đã hoàn hảo. Hiện tại Tịnh Độ tông chúng ta có năm Kinh một Luận, nương theo đây mà tu học thì đời này của bạn quyết định thành tựu, cuộc sống hiện tại nhất định đạt đến hạnh phúc mỹ mãn.

Nền tảng học Phật

 

Nền tảng học Phật là:

 

-          Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, lòng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

-          Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

-          Phát bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Sau khi Học Hội Tịnh Tông thành lập, chúng ta vì các đồng tu chuyên tu Tịnh Độ đã định ra năm khóa mục trong cuộc sống hàng ngày. Năm khóa mục này chính là nêu ra từ trong Tịnh Độ năm kinh.

Thứ nhất là Tam Phước. Tam phước là lấy ra từ trong Quán Vô Lượng Thọ kinh, vô cùng quan trọng, đây là nền tảng của tu hành, căn bản của căn bản. Trong kinh Phật nói rõ với chúng ta, ba điều này là “Ba đời chư Phật chánh nhân tịnh nghiệp”, câu nói này rất là quan trọng. Ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lai, hay nói cách khác, bao gồm tất cả chư Phật, các Ngài tu như thế nào? Các Ngài đều là dùng Tam Phước này làm nền tảng. Chúng ta đã biết tu học bất cứ pháp môn nào cũng đều có thể thành Phật, có vô lượng pháp môn để có thể thành Phật, vậy thì vô lượng pháp môn này đều là xây dựng ở trên nền tảng này, đều có cùng một nền tảng, cho nên chúng ta nhất định không thể xem thường.

Phước thứ nhất trong Tam Phước là phước báo trời người. Nếu bạn muốn làm Phật làm Bồ Tát thì trước hết phải làm một người tốt, người mà cũng không làm được tốt thì Phật Bồ Tát không có phần. Điều kiện cơ bản làm người, Phật nói với chúng ta bốn câu: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Chúng ta phải làm cho được bốn điều này, phải thật làm mới được. Sau khi nghe rồi trở về nhà thì phải học “hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính thầy giáo”, tiếp nhận giáo huấn của thầy. Thế nhưng hiện tại cái hiếu đạo này không còn nữa, sư đạo cũng không còn, đây là bi ai của người thời đại này chúng ta, đây là thực tế rõ ràng, người hiện đại ngay trong mắt của họ không có tôn trưởng thì làm sao họ có thể thành tựu?

Giáo dục của thời xưa là gia trưởng cùng phối hợp mật thiết với thầy giáo để đứa bé này giáo dục thành người, đơn phương không thể làm được. Thí dụ bạn làm cha mẹ, con cái bạn nếu như không hiếu thuận thì bạn sẽ rất khó khi mở miệng nói: con là con cái của ta, vì sao con không hiếu thuận ta vậy? Lời này cha mẹ không nói được ra miệng, phải do ai nói vậy? Thầy giáo nói. Thầy giáo là người thứ ba, thầy giáo dạy học trò hiếu thuận cha mẹ, nhưng thầy giáo cũng không thể có yêu cầu đối với học trò là: em là học trò của thầy, em phải tôn sư trọng đạo. Thầy giáo cũng không thể nói ra lời này, phải do ai nói vậy? Cha mẹ nói. Cha mẹ dạy con cái tôn kính thầy giáo, thầy giáo dạy họ trò hiếu thuận cha mẹ, hai người phối hợp với nhau thì mới dạy tốt được.

Hiện tại, thành thật mà nói, cha mẹ nuôi dưỡng con cái nhưng không hề quan tâm đến sự dạy dỗ nó, khi gặp được một thầy giáo tốt muốn nỗ lực nghiêm khắc một chút để dạy bảo. Những học sinh đã bị sự uốn nắn này về nhà cáo trạng với cha mẹ, thì thầy giáo còn phải đi hầu quan. Hiện tại làm thầy giáo không dám dạy học trò. Tôi ở Đài Loan đi dạy hết năm năm, những thầy giáo chúng tôi thường hay cùng nhau rất cảm khái mà nói ra lời thật lòng của chúng tôi, khi làm thầy nhận tiền lương, mỗi một tháng nhận bao thư tiền lương đem về thì được rồi, còn học sinh thì sao? Điểm số thì cứ cho nó đạt chuẩn thì là được rồi, thì hoan hỉ rồi, đôi bên đều rất hoan hỉ, học trò gạt thầy giáo, thầy giáo gạt học trò, trường học gạt phụ huynh, phụ huynh gạt trường học, gạt đến gạt lui như vậy thì trở thành thế giới lừa gạt. Cái thế giới như vậy có thể có tiền đồ không? Ngày nay xảy ra đến hiện tượng như vậy, chúng ta có thật lòng muốn giúp đỡ cũng không thể giúp được.

Có rất nhiều người, ngay đến nhiều pháp sư đạo hữu ở Trung Quốc đại lục đều khuyên tôi giảng đại kinh, không phải tôi không muốn giảng mà tôi muốn giảng rất nhiều năm mà không có cơ hội, ở trong Phật pháp gọi là chưa đủ cơ duyên, cũng chính là nói chưa có những điều kiện này, không có hoàn cảnh này. Mọi người cần phải có phước báo. Phước báo là phải chân thật giác ngộ, có thể làm đến được hiếu kính. Hiếu thân và tôn sư là một sự việc, ngày trước thì xem trọng nhưng hiện tại thì không biết, quên hết rồi, không có người giảng. Bạn xem thời xưa, lấy thí dụ về triều nhà Thanh, cuối triều nhà Thanh, đầu năm dân quốc, khi người đi học thi đỗ được công danh, như cử nhân,tiến sĩ (học vị thấp nhất vào triều nhà Thanh là Tú tài), thì việc đầu tiên mà họ làm là phải hồi quy bái tổ, không quên nguồn gốc, đó là tận hiếu.Con cháu được công danh thì đó là dốc hết hiếu đạo. Việc lớn thứ hai khi thi đỗ công danh là phải đi bái tạ thầy giáo. “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”: nếu hai câu nói này đều không thể làm được thì trên đường học Phật của bạn cũng không được gì, cái học Phật đó là nói huyền thuyết diệu, không lợi ích gì, là giả, không phải là thật.

Chân thật học Phật phải chính từ ngay đây mà làm, nếu bạn không biết cái gì gọi là hiếu, vì sao phải hiếu thì bạn nên đi đọc Kinh Địa Tạng. Bồ Tát Địa Tạng có ba bộ kinh, ngoài Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện ra, còn có Đại Thừa Địa Tạng Thập Luận Kinh, Triêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh, đây là Địa Tạng ba kinh, trong đây giảng rõ cho chúng ta nghe cái đạo lý này [hiếu đạo]. Từ ngay nơi cái nền tảng này nâng cao lên thêm phước nhị thừa, đây cũng chính là nói chúng ta có điều kiện tốt đẹp để làm người rồi, vậy mới có thể học Phật, mới có thể trở thành đệ tử Phật, mới có thể vào cửa Phật.

Điều kiện vào cửa Phật trước phải thọ trì Tam Quy, sau đó phải trì giới giữ quy cũ, không phạm oai nghi. Cho nên điều thứ hai có ba câu: “Thọ trì Tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”. Tôi nghĩ rất nhiều đồng tu đều đã thọ qua Tam Quy rồi, đó thật đều là quy giả không phải quy thật, đều là hình thức, không có nội dung, không có thật chất, hay nói cách khác, là quy y giả, giả mạo đệ tử Phật, không phải là thật. Nội dung ý nghĩa của Tam quy, chúng ta sẽ tìm một thời gian khác để giảng riêng đề tài này một lần, rất là quan trọng. Quy là quay đầu, quay đầu là bờ; Y là nương tựa. Quay lại từ chỗ nào vậy? Từ ngay nơi tất cả sai lầm mà quay đầu lại.Chúng ta đối với vũ trụ nhân sanh suy nghĩ sai, thấy sai, nói sai, làm sai thì chúng ta phải từ nơi tất cả sai lầm này mà quay đầu lại, nương vào Tam Bảo, sửa đổi tất cả sai lầm của chúng ta, đó gọi là nương tựa.

Tam Bảo là gì vậy? Mọi người đều biết gọi là Phật-Pháp-Tăng. Mọi người biết được Phật-Pháp-Tăng, nhưng không biết ý nghĩa của ba chữ Phật-Pháp-Tăng, vậy thì theo cách khác mà nói là bạn vẫn là chưa có Quy y. Phật-Pháp-Tăng không phải là nói ở bên ngoài. Phật ở bên ngoài hiện tại là tượng Phật bằng gỗ, bằng xi măng. Có câu rằng: “Bồ Tát đất qua sông còn khó giữ được thân”, bạn nương vào đó thì bạn làm sao có thể nương được chứ? Không thể nương được. Pháp Bảo là kinh sách, từ xưa đến nay kinh sách bị thiêu hủy có đến bao nhiêu? Cho nên cũng không thể nương được. Người xuất gia là phàm phu, đời sống của họ còn phải dựa vào tín đồ các vị, không có tín đồ thì họ sẽ chết đói, họ có thể nương được không? Cũng không thể nương được. Cho nên trong Phật môn thường nói: Tín đồ tại gia là cơm áo cha mẹ. Dùng hết phương cách để nắm giữ tín đồ, không thể để tín đồ đi mất, [tín đồ] đi mất thì sao vậy? Thì đời sống của họ cũng đi mất, việc này gọi là “Hòa thượng không làm trò, cư sĩ không đến lạy”, vậy thì làm sao có thể nương được chứ? Vậy thì Tam Bảo là gì, ý nghĩa ra sao vậy? Phật giảng rõ ràng cho chúng ta là “Tự Tánh Tam Bảo”. Phật dạy bạn quy y là nương vào Tự Tánh Tam Bảo của bạn, không phải bên ngoài tâm tánh của bạn. Phật là ý nghĩa của giác ngộ, tự tánh giácchính là Phật bảo, tự tánh chánh chính là Pháp bảo, tự tánh tịnh chính là Tăng bảo. Cho nên,Phật-Pháp-Tăng (Tam Bảo) là Giác-Chánh-Tịnh.

Từ triều đại nhà Đường có thể đã xảy ra ngộ nhận, mọi người đều nhận lầm, đều đem hình tượng Phật Bồ Tát, kinh sách, người xuất gia xem thành Tam Bảo, khi quy y rồi thì đó là thầy quy y của tôi, ông kia không phải. Ở ngay đó khởi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chúng ta làm sao biết được, ngay lúc đó liền có cái sai lầm này. Chúng ta đọc Lục Tổ Đàn Kinh xong thì phát hiện, lúc Lục Tổ Đại sư truyền thọ Tam quy y này cho người, Ngài đã không nói là Phật-Pháp-Tăng. Vì sao Ngài không nói Phật-Pháp-Tăng? Ở ngay trong tưởng tượng của chúng ta thì có lẽ Ngài nhất định là sợ cái danh từ này sẽ khiến cho mọi người sanh ra ngộ nhận, nên Ngài giảng là Giác-Chánh-Tịnh, Ngài dùng cái danh từ này. Quy y Giác, Quy y Chánh, Quy y Tịnh, các vị đọc Đàn Kinh thì sẽ xem thấy. Danh từ này khi chúng ta nghe thì sẽ không xảy ra hiểu lầm, rất rõ ràng. Sau đó Lục Tổ nói với chúng ta: Phật là Giác vậy, Pháp là Chánh vậy, Tăng là Tịnh vậy. Khi giải thích ra thì Giác-Chánh-Tịnh chính là Phật-Pháp-Tăng, đây là đem tự tánh tam bảo hiện thị ra cho chúng ta.

Cho nên nói quay đầu thì chúng ta liền sẽ rất rõ ràng là giác mà không mê. Chúng ta từ mê hoặc điên đảo thì quay đầu lại nương vào tự tánh giác, hay nói cách khác, chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải nương vào lý trí, không nên dùng tình cảm, đó chính là quy y Phật. Phật là trí tuệ, Phật là giác ngộ, cảm tình làm việc là mê hoặc điên đảo. Tam quy y này là như vậy mà dạy chúng ta. Pháp là chánh tri chánh giác, cũng chính là chúng ta đem cách nghĩ, cách làm sai lầm sửa đổi lại, nhất định phải có tư tưởng chính xác, cách nhìn chính xác, đó gọi là quy y pháp. Tăng là sáu căn thanh tịnh không nhiễm một bụi trần. Cho dù là người xuất gia như thế nào đi chăng nữa thì chính chúng ta phải mỗi giờ mỗi phút phải gìn giữ tâm thanh tịnh của mình, trong lòng không nên bị ô nhiễm, tinh thần không nên bị ô nhiễm, tư tưởng không nên bị ô nhiễm, kiến giải không nên bị ô nhiễm, trước sau luôn giữ gìn một tâm thanh tịnh, đó gọi là quy y Tăng. Tăng là ý nghĩa của thanh tịnh. Đây gọi là Tam Quy y.

Khi các vị quy y thì nghĩ quy y với một vị pháp sư, vị pháp sư này là thầy quy y của tôi, vậy thì không đúng rồi. Bạn xem, đó là bạn quy y Mê-Tà-Nhiễm, tâm của bạn bị vị pháp sư này ô nhiễm rồi. Đây là sư phụ của tôi, kia thì không phải, tâm của bạn không phải bị ô nhiễm rồi sao? Cho nên các vị quy y là gì vậy? Là Mê-Tà-Nhiễm, đó gọi là đệ tử Phật hay sao? Đệ tử Phật là Giác-Chánh-Tịnh, giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh mà không nhiễm, đây mới là đệ tử Tam bảo. Cho nên ngày nay học Phật, ngay từ ngày quy y thì đã sai rồi, sai đến cuối cùng. Như vậy còn muốn làm Phật sao? Thật còn kém quá xa, còn kém xa lắm, không đọa địa ngục đã xem là quá tốt, phiền phức này sẽ không nhỏ. Cho nên nhất định phải làm cho rõ ràng tường tận, Tam Quy Y này là vào cửa, sau khi vào cửa rồi thì đây vẫn là nền tảng.

Nâng cao thêm lên là nền tảng đại thừa. Đại thừa có bốn câu: “phát bồ đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả”, là bốn câu này. Đây là cảnh giới sau khi bạn quy y, nâng cao lên thêm một tầng nữa là phải dạy bạn phát tâm Bồ Đề.

  1. Phát bồ đề tâm

 

Cái gì gọi là Tâm Bồ Đề? Bồ Đề là tiếng phạn của Ấn Độ, dịch âm ra ý nghĩa là giác ngộ, nhất định không thể mê hoặc. Cho nên tu học Đại thừa thì tâm Bồ Đề là căn bản. Bạn xem chúng ta vãng sanh thế giới Tây phương Cực Lạc, trong 48 nguyện của Phật A Di Đà thì quan trọng nhất chính là nguyện thứ 18, nguyện thứ 19. Nguyện thứ 18 chính là nói mười niệm sẽ vãng sanh, còn nguyện thứ 19 chính là phát tâm Bồ Đề. Bạn xem thấy ở trong kinh nói ba bậc vãng sanh: bậc thượng, bậc trung, bậc hạ.Trong ba bậc vãng sanh đều phải “phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”. Các vị xem kinh văn thì biết, ba bậc vãng sanh đều là một câu nói này. Vậy thì theo đây mà biết, điều kiện vãng sanh thế giới Tây phương Cực Lạc chính ngay tám chữ này.Bạn không phát tâm Bồ Đề thì niệm Phật cũng không thể vãng sanh.

Tâm Bồ Đề là gì? Là giác ngộ. Phải làm thế nào mới xem là giác ngộ? Trong đây có một số nguyên tắc quan trọng:

-                Thứ nhất phải biết cái thế gian này là khổ, cái thế gian này là khổ thật. Người tuổi tác như chúng tôi đây đã nếm đủ đắng cay rồi, người hai ba mươi tuổi thanh niên các vị không biết, các vị sanh ra sau khi đại chiến thứ hai, không gặp phải những khổ nạn này, xem như là người rất có phước báo. Thế nhưng phước báo của bạn, bạn có thể bảo đảm hưởng được đến già không? Ai bảo đảm về sau bạn sẽ không còn gặp phải tai nạn không? Dự ngôn của đông tây phương đều nói năm 1999 là ngày tàn thế giới, năm nay là 1996 rồi, khi đại tai nạn này đến thì người trên toàn địa cầu phải chết 2/3, cho nên bạn thử nghĩ xem, phước báo của bạn có thể giữ được đến già không? Lời tiên đóan này là lời tiên đóan của người xưa, lời tiên đóan của mấy trăm năm trước, nhưng lời tiên đoán của Trung Quốc cũng sắp gần hơn một ngàn năm trước, đều nói ở vào thời đại này có tai nạn, nhưng lời tiên đoán của Trung Quốc chúng ta thì không có nói đến ngày tàn, không nói nghiêm trọng đến như vậy, lời tiên đoán của phương tây thì nói rất nghiêm trọng, nói là ngày tàn đã đến.

Thế nhưng chúng ta không quan tâm đến những điều này, chúng ta tỉ mỉ mà quan sát xã hội hiện tại, chúng ta dùng lý tánh để quan sát thì có thể biết được. Chúng ta phải xem từ đâu? Từ nhân tâm mà xem. Thật là đáng sợ! Chỉ cần hướng về 30 năm trước mà so sánh, lòng người của 30 năm trước thuần hậu chất phác hơn so với người hiện tại; lòng người hiện tại so với lòng người của 30 năm trước hoàn toàn không như nhau, [lòng người hiện tại thì] tự tư tự lợi, lợi mình hại người, người thời trước nghĩ lợi mình nhưng vẫn không đến nỗi hại người, hiện tại thì phải tổn hại người khác, vậy thì còn gì để nói. Cả thế giới động loạn, ngay đến khí hậu của toàn địa cầu cũng đều thay đổi, đều không bình thường, việc này chúng ta cần phải đề cao cảnh giác. Nếu như không nỗ lực chăm chỉ đoạn ác hướng thiện, thành thật niệm Phật, e rằng khi tai nạn vừa đến thì không cách gì tránh khỏi thì thật đáng sợ. Tuy là thời gian rất gần, còn có ba năm nữa thôi, nhưng ba năm vẫn còn kịp, chân thật nỗ lực mà làm thì vẫn còn có thể kịp. Nếu hiện tại không nỗ lực mà làm thì sẽ không kịp vì thời gian quá ngắn. Cho nên phát tâm Bồ Đề, giác ngộ thứ nhất là biết được thế gian này là khổ, biết được thế giới Tây phương Cực Lạc an vui, nên chúng ta muốn lìa khổ được vui, đó là chân thật giác ngộ.

-                Giác ngộ thứ hai là phải lợi ích chúng sanh, phải có thể hy sinh mình vì người. Vậy chúng ta thử nghĩ xem, chúng sanh ngày nay cần thiết nhất là điều là gì? Là giáo dục của Phật Đà, không có thứ nào quan trọng hơn. Bên đây chúng ta cũng có mấy vị đồng tu cũng tương đối đáng quý, họ xây dựng học hội Tịnh Tông nơi đây, hy vọng có thể đem Phật pháp kiến lập ở nơi đây, rất khó được! Họ tìm đến tôi, tôi tùy duyên, mọi người có cái tâm này thì tôi liền đến giúp một tay, các vị không có cái tâm này, tôi sẽ đi đến nơi khác, nơi nào có duyên thì đi đến nơi đó. Thế nhưng quan trọng nhất là phải bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp, “người có thể hoằng đạo, đạo không thể hoằng người”. Ngày nay kỹ thuật in ấn phát triển, chúng ta đã in ra rất nhiều kinh điển, lưu truyền đi khắp thế giới, nhưng không có người giảng thì mọi người vẫn là xem không hiểu, vẫn là hiểu sai ý nghĩa.

Cho nên cần thiết phải có người giảng, do đó ngày nay lợi ích chúng sanh lớn nhất không gì hơn được là bồi dưỡng nhân tài giảng kinh, công đức này là công đức đệ nhất, không gì so sánh. Tôi mong muốn ở nơi đây, đồng tu của học hội Tịnh Tông bên đây hướng đến mục tiêu này mà làm. Tâm lượng chúng ta phải lớn, không phải vì một cái đạo tràng của ta, không phải vì một quốc gia, vì một khu vực này, mà chúng ta phải vì toàn thế giới. Một quốc gia được tốt, các nơi khác không tốt thì ngày tháng của chúng ta cũng sẽ rất khó mà trải qua. Mọi người đều tốt thì ngày tháng của chúng ta sẽ rất tốt. Lời xưa Trung Quốc thường nói: “một nhà no ấm ngàn nhà oán”, bạn là một người giàu có, còn người khác thì bần cùng, thì người bần cùng sẽ đố kỵ bạn, oán hận bạn, giờ nào phút nào cũng muốn hại bạn, ngày tháng của bạn làm sao bình yên được? Mọi người đều giàu có thì ngày tháng của chúng ta sẽ rất tốt. Cho nên tầm nhìn phải lớn, phải thấy được xa, hy vọng cả thế giới này đều tốt thì chúng ta sẽ tốt. Vậy thì chúng ta bắt đầu từ đâu vậy? Bắt đầu từ bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp, đây là việc hy hữu khó được. Khi người hoằng pháp nhiều rồi, người giảng kinh nhiều rồi thì mọi người sẽ hiểu rõ đạo lý Phật pháp, dần dần giác ngộ thì mới có thể phá mê khai ngộ, mới có thể lìa khổ được vui, đây gọi là phát tâm Bồ Đề.

  1. Tin sâu nhân quả

Đây là nói đến Bồ Tát. Bồ Tát mà vẫn không tin nhân quả hay sao? Thiện có thiện báo, ác có ác báo, chúng ta đều tin tưởng, nói Bồ Tát tin tưởng nhân quả không phải là nói nhân quả này của chúng ta. Là nhân quả gì vậy? Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, đích xác loại nhân quả này. Chúng ta xem ở trong kinh luận, thấy có rất nhiều Bồ Tát đều không biết [nhân quả này]. Cho nên phải tin tưởng niệm Phật là nhân, vãng sanh thế giới Tây phương Cực Lạc nhất định thành Phật là quả.

  1. Đọc tụng Đại thừa

Người tu Đại thừa Tịnh Độ chúng ta chỉ đọc Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, một môn thâm nhập. Nếu như bạn cảm thấy không đủ thì Tịnh Độ năm kinh một luận là đủ rồi, đã rất là phong phú rồi, không cần phải cầu nhiều hơn nữa. Ở ngay đây cắm gốc khai hoa kết quả, đem nó mở mang rộng lớn, một kinh thông thì tất cả kinh đều thông đạt.

  1. Sau cùng là Khuyến tấn hành giả

 

Do đây mà biết, toàn bộ phía trước đã nói thuộc về tự lợi, câu sau cùng bảo chúng ta phải đem những gì mà chúng ta có được, chỗ tốt chỗ lợi ích phải truyền đạt cho người khác, làm lợi ích tất cả chúng sanh để họ nhận thức Phật pháp, hiểu rõ Phật pháp, tu học Phật pháp, thành tựu Phật pháp. Thành tựu Phật pháp là thành tựu vô lượng vô biên pháp môn trí tuệ, là cái ý như vậy, đây là Tam Phước, đây là một khóa mục trong năm khóa mục của chúng ta.

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói ra Tam phước, ba phước này rất là then chốt, không luận là tu học một tông nào, một pháp môn nào cũng đều không thể khiếm khuyết. Giống như trên kinh Phật đã nói: “ba đời chư Phật chánh nhân tịnh nghiệp”. Câu nói này đã nói rất rõ ràng, ba đời là chỉ quá khứ, hiện tại, vị lại, pháp môn tu hành thành Phật rất nhiều nhưng đều xây dựng trên cái nền tảng này. Nhưng chúng ta cũng cần phải biết, có được nền tảng này rồi thì hiện tại chúng ta vẫn chưa thành Phật, vẫn chưa rời khỏi thế giới này. Thực tế mà nói, cho dù thành Phật rồi cũng không rời khỏi chúng sanh, Phật phải phổ độ chúng sanh thì làm sao có thể rời khỏi chúng sanh chứ? Giả như nếu ở chung với chúng sanh thì làm thế nào để có thể cùng ở chung được tốt, ở chung được hòa thuận? Phật chế định cho chúng ta có sáu giới điều. Sáu điều giới này thực tế mà nói, không chỉ là dùng trong đoàn thể Phật giáo mà có thể phổ biến rộng khắp, dùng trong tất cả các đoàn thể xã hội. Trong nhà Phật gọi là Chúng, bạn xem, khi chúng ta quy y Tam bảo có câu “Quy y Tăng chúng trung tôn”. Ý nghĩa của chữ “Chúng” này chính là ngày nay chúng ta gọi là xã đoàn, đoàn thể.

Khi mọi người cùng tụ hội lại với nhau, đó gọi là chúng. Đoàn thể lớn nhỏ của thế gian và xuất thế gian, ở trong xã hội thông thường này của chúng ta mà nói, thì đoàn thể nhỏ nhất là gia đình, đoàn thể lớn thì là một quốc gia, một quốc gia cũng là một đoàn thể, to lớn hơn nữa thì tổ chức ngày nay của chúng ta có Liên Hiệp Quốc. Đây chính là nói rõ, thế giới là một đoàn thể, là một đoàn thể mà chúng ta cùng nhau sinh sống ở trên địa cầu này. Vì sao nói trong rất nhiều các đoàn thể này thì đoàn thể Phật giáo là tôn quý nhất? Bởi vì Thế Tôn đã vì đoàn thể Phật giáo chế định ra sáu giới điều, mỗi một phần tử trong đoàn thể đều cần phải tuân thủ. Do đó, trong tất cả đoàn thể, đoàn thể Phật giáo đích thực là tôn quý nhất, đáng được đại chúng tôn kính, là mô phạm của đại chúng.

Lục Hòa Kính

 

  1. Kiến hòa đồng giải
  2. Giới hòa đồng tu
  3. Thân hòa đồng trụ
  4. Khẩu hòa vô tranh
  5. Ý hòa đồng duyệt
  6. Lợi hòa đồng huân

Trong sáu điều giới luật này, điều thứ nhất chính là kiến hòa đồng giải. Đây cũng chính là người hiện đại chúng ta gọi là “xây dựng cùng hiểu”, hay nói cách khác, ngay trong đoàn thể này, bất cứ một phần tử nào, cần thiết phải tư tưởng kiến giải, cách nghĩ cách nhìn phải gần nhau. Đây mới là một nền tảng hòa thuận. Nếu như cách nghĩ, cách nhìn của mỗi người không giống nhau thì khi mọi người cùng ở với nhau sẽ không tránh khỏi có sự bất hòa, không tránh khỏi có sự xung đột. Như vậy thì đoàn thể này không thể hòa hợp, cho nên đem nó xếp ở thứ nhất. Trong “kiến hòa đồng giải”, chữ Kiến này cũng có rất nhiều những tiêu chuẩn khác biệt. Thí dụ nói một gia đình thì lấy sự hưng vượng của gia đình làm mục tiêu, nếu như có sự cùng hiểu này thì cái gia đình này sẽ rất mỹ mãn; Nếu như là một công ty thương nghiệp thì mục tiêu của họ là kiếm tiền, chỉ cần mọi người có thể đoàn kết với nhau thì có thể sẽ kiếm được nhiều tiền hơn, đó là cùng hiểu của họ. Vậy thì do đây mà biết, đoàn thể không giống nhau thì tiêu chuẩn cũng không giống nhau.

Vậy thì ở trong nhà Phật có một tiêu chuẩn tuyệt đối, cái tiêu chuẩn này khiến cho chúng ta cảm thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đích thực là rất thông minh, rất có trí tuệ, đó là người học Phật khi bước vào cửa Phật thì danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần của thế gian này thảy đều buông bỏ. Chúng ta phải từ nơi nào để xây dựng cùng hiểu vậy? Nếu như Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, các người đều là mê hoặc điên đảo, kiến giải sai lầm, ta là đại trí đại giác, các người phải y theo kiến giải của ta mà kiến giải, cách nói như vậy thì chúng ta có phục được không? Đương nhiên có một bộ phận thừa nhận Phật là đại thánh nhân, là người trí tuệ viên mãn, còn lại một số người thì sao? Cảm thấy chưa chắc. Chúng ta tán thán trí tuệ đức năng của Phật là vạn đức vạn năng, có không ít người nghe được câu nói này cho đây là tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật, tuyệt nhiên không phải là sự thật. Như vậy thì kiến giải này sẽ có rất nhiều khác biệt lớn, làm thế nào có thể xây dựng cùng hiểu chứ? Do đó Thế Tôn cao minh, Ngài cao ở chỗ nào vậy? Chúng ta chỉ cần đem tất cả cách nhìn, cách nghĩ của chính mình thảy đều buông bỏ hết, vậy chẳng phải bình đẳng rồi sao? Phương pháp này đích thực là cao minh.

Phật không nói tri kiến của ta là chính xác, tri kiến của ông không chính xác, khi mọi người đem tri kiến đã có thảy đều buông bỏ thì liền quay về một mối. Ngài đã kiến lập ngay trên nền tảng này, chân thật gọi là “Bát Nhã Vô Tri”. Ngay khi nó khởi tác dụng là “Vô sở bất tri”, khi không khởi tác dụng cũng chính là không có người thỉnh giáo họ, không có người hỏi họ thì tâm của họ thanh tịnh, một niệm không sanh, tâm của mỗi một người đều thanh tịnh, đều không có một vọng tưởng, không có một tạp niệm. Cái này đích thực là cùng hiểu, cùng hiểu của đoàn thể nhà Phật là xây dựng trên nền tảng này. Việc này sau khi chúng ta nghe rồi chân thật bội phục, không ai theo ai cả, cũng không ai sỏ mũi ai kéo đi. Chúng ta ở trong tất cả đoàn thể cũng tìm không ra, thật là không có cái thứ hai. Lấy tôn giáo ra mà nói, tôn giáo vẫn còn phải đi theo Thượng Đế, bạn không thể bình đẳng với Thượng Đế. Phật không bảo bạn đi theo Ngài, đây là chỗ chúng ta rất bội phục ở Ngài.

Điều thứ hai là giới hòa đồng tu. Giới mà chỗ này nói có nghĩa rộng, có nghĩa hẹp. Nghĩa hẹp chính là Phật đà răn dạy đối với chúng ta, chúng ta phải thấu hiểu, phải tuân thủ, đây là cách nói theo nghĩa hẹp. Nói theo nghĩa rộng là thủ pháp, giới chính là pháp luật, chính là quy cũ, thậm chí đến bao gồm tất cả phong tục tập quán của thế gian này của chúng ta, chúng ta đều phải vâng giữ. Đặc biệt là chúng ta sống trong thời đại hiện đại này, do vì giao thông thuận tiện, thông tin phát triển, không gian hoạt động của chúng ta không hạn định ở một quốc gia mình, chúng ta thường hay đi đến khu vực quốc gia khác để tham quan. Cho dù đến một nơi nào, chúng ta nhất định phải tuân thủ pháp luật của cái địa phương đó, vâng giữ phong tục tập quán của địa phương đó, như vậy thì chúng ta mới có thể cùng sống hòa thuận với người địa phương đó, mới nhận được hoan nghênh của người địa phương đó, mới nhận được sự tôn kính của người địa phương đó. Điều giới luật này của Phật rất là thực tế và hữu dụng đối với cuộc sống của chúng ta.

Chúng ta xem thấy chân thật có thể sanh tâm hoan hỉ. Cho nên nhà Phật giảng nói giới luật không phải là khô cứng.Nói năm giới, mười giới, Tỳ Kheo giới, Bồ Tát giới thì phạm vi này xem thấy quá nhỏ hẹp. Cho nên việc trì giới này, nếu dùng lời hiện đại mà nói, chính là thủ pháp.Thủ pháp chính là trì giới. Người thủ pháp thì không có nơi nào mà không hoan nghênh, người người đều hoan nghênh. Cho nên ý nghĩa chân thật của trì giới là thủ pháp, vì vậy nên mới nói thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng duyệt. Đây là sống trong một đoàn thể, đôi bên hỗ trợ lẫn nhau, không có tranh luận, không có ý kiến đương nhiên là không có tranh luận, cùng nhau tu học, có một phương hướng, có một mục tiêu, mỗi ngày đều có tiến bộ thì đương nhiên sanh tâm hoan hỉ nên gọi là pháp hỉ sung mãn.

Cẩn dịch: Vọng Tây Cư Sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hiền

(Còn tiếp)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây