Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú giảng lần thứ 4 năm 2014

Phật sở hành xứ, quốc ấp khu tụ, mĩ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng, quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng, cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở.
Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú
(Tập 1) 
Người giảng: Lão pháp sư Tịnh Không.
Thời gian: ngày 09 tháng 03 năm 2014
Địa điểm: giảng tại Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà HongKong.
(Đây là bộ khoa chú giảng lần thứ 4 khi ngài ở độ tuổi gần 90)
Các vị pháp sư, các vị đồng tu, xin chào mọi người, xin mời ngồi. Hôm nay là ngày 09 tháng 03 năm 2014, chúng ta bắt đầu học tập “Đại Kinh Khoa Chú” lần thứ 4. Mỗi lần học tập đều giúp cho chính chúng ta hướng nâng lên trên.

 

Chương 20: Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú 2014 - Tập 10 - Phần 2

“Đao sơn tại hậu”[12]. Nếu như chúng ta không về thế giới Cực Lạc, thì đó chính là địa ngục tam đồ. Núi đao, rừng kiếm là địa ngục. Chúng ta đi về đâu? Nhất định phải suy nghĩ thật kỹ.

Ta sống ở thế gian này nhiều năm như vậy, đã tạo nghiệp gì rồi? Là nghiệp thiện hay nghiệp ác? Khởi tâm động niệm, lời nói việc làm vì chúng sanh là nghiệp thiện, vì mình chính là nghiệp ác. Chúng ta mỗi ngày được bao nhiêu ý nghĩ vì xã hội, vì chúng sanh, lại bao nhiêu ý nghĩ vì mình? Lục đạo luân hồi là nghiệp lực dẫn dắt bạn đi. Cho nên tự mình hãy phản tỉnh thật kỹ, đại khái đời sau ở cõi nào đã biết rất rõ ràng rồi.

Mấy năm trước, cũng do tôi mời một vị đồng tu già của chúng ta, ông là nhà họa sĩ, là nhà họa sĩ nổi tiếng đương đại - Giang Dật Tử, vẽ một bức địa ngục biến tướng đồ, là dựa theo “Ngọc Lịch Bảo Sao” của Đạo gia mà vẽ ra, vẽ vô cùng đẹp, ông dùng thời gian 1 năm, vẽ tỉ mỉ. Sau khi bức họa này ra đời, vào lúc này tôi ở Úc Châu, tôi bỗng nhiên nghĩ đến trong kinh Phật, Phật đã nói về tình trạng địa ngục cho chúng ta có lẽ rất nhiều. Nhưng cửa Phật không có một cuốn sách để chuyên nói về sự việc này, cho nên tôi đã tìm mấy vị đồng tu tra trong “Đại Tạng Kinh”, đem “Đại Tạng Kinh” từ đầu đến cuối lật tra một lần, tìm ra 25 loại sách, bên trong nói về địa ngục, vả lại nói rất rõ ràng. Cho nên chúng tôi bèn đem những chỗ này chép ra biên tập thành một quyển, tôi đã đặt cái tên là “Chư Kinh Phật Thuyết Địa Ngục Tập Yếu”. Vào lúc đó trong tâm tôi nghĩ rằng, tương lai nếu gặp được người có cái duyên phận này, đem cái địa ngục mà trong kinh Phật nói này, vẽ một bức biến tướng đồ. Cái mà trong kinh Phật nói nhân quả rõ ràng. “Ngọc Lịch Bảo Sao” quả báo nói nhiều, cái quả này là do tội nghiệp gì, nhưng vẫn còn có cái thiếu sót, có cái nói rõ, có một số không có. Nhưng ở trong kinh Phật đều có, nhân như thế nào cảm quả ra làm sao. Đặc biệt là cái thời đại này giáo hóa chúng sanh để họ hồi đầu thị ngạn, thảy đều dựa vào lý luận nhân quả và chân tướng sự thật, phải dạy cái này. Lý luận hiểu rõ ràng rồi thì họ không hoài nghi, thật sự có. Sự tướng thấy rõ ràng thì họ biết sợ rồi, tâm sợ hãi sinh khởi lên rồi, không dám làm ác. Luân lý đạo đức là khuyên người không nỡ làm việc ác, nhưng khi danh cao, lợi dày bày ngay trước mắt, thì có khi sẽ bị động tâm, sẽ không giữ được, nhưng mà nhân quả hiểu rồi thì họ có thể giữ được. Tại sao vậy? Họ biết sợ. Họ nghĩ đến ta làm cái việc này, sau khi chết đọa địa ngục, họ biết sợ rồi. Cho nên giáo dục tôn giáo đối với thế đạo nhân tâm, đối với sự an nguy của xã hội, có sự cống hiến rất lớn, chúng ta cần tìm nó trở lại. Nếu không tìm nó trở lại, thì cái xã hội này động loạn, vô phương hóa giải.

“Ư thị, tự nhiên sanh khởi thắng nguyện”[13]: “Thù thắng”, nguyện thù thắng là gì vậy? Cầu sanh thế giới Cực Lạc. Cái nguyện này quá thù thắng rồi. Dưới đây nói:

“Yểm ly Ta-bà, cầu sanh Cực Lạc”[14]: Bộ “Kinh Vô Lượng Thọ” này, cộng thêm tập chú của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, là có thể khởi cái tác dụng chán lìa Ta bà, cầu sanh Cực lạc này. Nói cái thế gian này của chúng ta khổ, ở trong bộ kinh này, có một đoạn lớn kinh văn phân lượng rất lớn, từ phẩm 32 đến phẩm 37, chuyên nói thế gian này của chúng ta quá khổ. Nói bổ sung thêm thì trong toàn kinh từ đầu đến cuối nói không ít, còn chuyên môn nói việc này là có 6 phẩm kinh này, quá quan trọng rồi.

“Ký sanh tín nguyện, cánh trì danh hiệu, tiện đắc độ thoát.”[15]

Học tập của bạn liền thành công ngay. Đã thật sự tin, tin rồi. Vậy thì thật sự muốn đi rồi, phương pháp đi chính là một câu danh hiệu. Trong kinh nói rất rõ ràng, chúng ta nhìn thấy biết bao nhiêu người tự tại vãng sanh, biết trước giờ đi, quả thật họ một đời chỉ là một câu Phật hiệu, ngoài một câu Phật hiệu này ra họ không có gì cả. Cho nên chúng ta tự mình phải giác ngộ, không thể không buông xả vạn duyên, nhất tâm chuyên niệm A-Di-Đà Phật. Nếu không làm theo như vậy, thì e rằng chúng ta đến lúc sắp mạng chung vẫn cứ tạo lục đạo luân hồi như xưa, đời này học uổng công rồi.

Các bạn không sợ, nhưng tôi sợ, các bạn không quan tâm, nhưng tôi rất quan tâm. Có lẽ vì các bạn còn trẻ, còn có thời gian, còn tôi cái tuổi tác này không còn thời gian nữa. Trong, ngoài nước, rất nhiều người trẻ tuổi nhiệt tâm với văn hóa truyền thống, nếu các bạn đến hỏi tôi, tôi hoan hỷ nhưng tất cả hoạt động của các bạn, tôi không thể tham gia, tôi không còn thời gian tham gia, tôi muốn học theo lão hòa thượng Hải Hiền, nhất tâm chuyên niệm A-Di-Đà Phật. Cái thân thể này khi còn đây, tôi chuyên học một bộ kinh này, bộ tập chú này. Mỗi ngày dành một chút thời gian chia sẻ với mọi người. Chúng ta lợi dụng khoa học kỹ thuật hiện nay, dùng truyền hình vệ tinh, dùng mạng internet, cho nên không nhất thiết ở cùng nhau, ở cùng nhau cần phước báo lớn. Chúng ta phước mỏng, nghiệp chướng sâu, không có phước báo lớn như vậy, không có đạo tràng. Người nhiều đến nơi đây không có chỗ ở, cho nên mỗi người ở tại nơi mình cư trú, nghe kinh mỗi ngày chí ít nhất là hai giờ, còn thông thường cũng phải 4 giờ, mở kênh ra đều có thể thu được. Đây là điều mà thế hệ trước không cách gì làm được, chúng ta thế hệ này làm được rồi. Ở trong đời này, nhất định phải coi vãng sanh thế giới Cực Lạc là đại sự duy nhất trong đời này của chúng ta. Cho nên mọi người mở trường, đâu đâu cũng muốn mở Viện Hán Học, tôi hoan hỷ, tôi tán thán, nhưng tôi không thể tham gia vào công việc. Nhiều lắm nếu như thân thể tôi vẫn còn tốt thì khi Viện Hán Học thành lập rồi (bởi vì Viện Hán Học là Nho, Thích, Đạo), tôi có thể đi dạy một môn học chính là “Kinh Vô Lượng Thọ” những thứ khác tôi không đụng đến. Tôi đời này một bộ kinh, một câu A-Di-Đà Phật, quyết định cầu sanh thế giới Cực Lạc.

“Sanh bỉ quốc dĩ, sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Kiến Phật văn pháp, đắc vô thượng ngộ”[16]:

Không những gặp Phật A-Di-Đà, đồng thời gặp tất cả chư Phật Như Lai 10 phương, không những nghe Phật A-Di-Đà thuyết pháp, đồng thời nghe tất cả Phật thuyết pháp.

“Đắc vô thượng ngộ”: “vô thượng ngộ” chính là chúng ta thường nói là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”. Trí tuệ thần thông đạo lực giống như Phật vậy. Trí tuệ thân thông đạo lực giống như Phật, cùng với vị Phật nào? Chính là A Di Đà Phật. Đệ tử của A Di Đà Phật đương nhiên giống với A Di Đà Phật,

“Do hữu niệm, nhi nhập vô niệm”[17]: Trước khi chưa vãng sanh có niệm, vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc liền chứng được vô niệm,

“nhân vãng sanh, nhi khế vô sanh”[18]: Trước khi chưa vãng sanh có sanh tử, có luân hồi, còn vãng sanh đến Thế Giới Cực Lạc, sanh tử luân hồi liễu thoát, không còn nữa, cái thế giới không sanh không diệt.

“Đốn ngộ thử tâm, bổn lai bình đẳng”[19]: Đây chính là đề kinh của bổn kinh, Thanh tịnh Bình đẳng Giác. Vậy Thanh tịnh Bình đẳng Giác là ai? Chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật có một biệt hiệu, gọi là Thanh tịnh Bình đẳng Giác. Cho nên nói, cái tâm này chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính là cái tâm này. Đoạn phía sau:

“Nguyên Hiểu Sư vân”: Sư Nguyên Hiểu, vị pháp sư này là người Hàn Quốc. Vào triều nhà Đường ngài du học ở Trung Quốc, là học trò của Đại sư Thiện Đạo. Sau khi học xong về nước, đem Tịnh Độ tông truyền qua đó, ngài nói như sau:

“tứ thập bát nguyện, tiên vi phàm phu, kiêm vi tam thừa thánh nhân”[20]:

Bạn tỉ mỉ mà quán sát 48 nguyện của A Di Đà Phật, chân thật mỗi nguyện đều là vì chúng sanh khổ nạn sáu cõi mà lo nghĩ, không phải vì người khác. Từ ngay chỗ này chúng ta thể hội được, Di Đà khi ở nhân địa phát đại nguyện, vào lúc đó chưa thành Phật, ngài xuất gia làm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Pháp Tạng là đức hiệu của ngài, con người này có trí tuệ, có tâm đại từ bi, xem thấy trong mười phương cõi nước chư Phật, chúng sanh sáu cõi quá đáng thương, mê quá sâu rồi, nghiệp chướng quá nặng rồi, muốn giúp đỡ họ siêu vượt sáu cõi thật khó. Cho nên ngài hướng đến lão sư của ngài là Thế Gian Tự Tại Vương Phật thỉnh giáo, làm thế nào có thể thỏa cái nguyện vọng của ngài độ chúng sanh? Lão sư dạy ngài một phương pháp, dạy ngài đi tham học, “con có thể đến trong mười phương tất cả cõi nước chư Phật thăm viếng (dùng lời hiện tại mà nói là bảo bạn đi khảo sát, bạn đi học tập). Trong các cõi nước chư Phật ấy, cái tốt đẹp thì con nhớ lấy, con học tập cái đó, những cái không tốt trong các cõi nước chư Phật đó con có thể không lấy (thủ nhân chi trường, xả nhân chi đoản), rồi xây dựng đạo tràng của chính mình”.

Đây chính là nguyên lai của Thế Giới Cực Lạc, không phải do vọng tưởng nào mà nghĩ ra được, không phải vậy. Tỳ Kheo Pháp Tạng dùng thời gian 5 kiếp, không có nói tiểu kiếp trung kiếp, vậy cái kiếp đó chính là đại kiếp, thời gian của 5 cái đại kiếp, khảo sát mười phương tất cả cõi nước chư Phật, tổng kết thành 48 nguyện, cũng chính là nói, ngài lấy bỏ đối với mười phương thế giới cõi nước chư Phật. Ngài đã lấy những gì, ngài xả bỏ những gì? Trong nguyện thứ nhất chúng ta xem thấy rồi, ngài xả ba đường ác, ba đường ác bất thiện, cho nên Thế Giới Cực Lạc có cõi Phàm Thánh Đồng Cư, thế nhưng nó chỉ có hai cõi trời, người, còn ba đường ác lại thêm vào một cõi là A Tu La, Thế Giới Cực Lạc không có A Tu La, không có La Sát, không có ngạ quỷ súc sanh địa ngục. Vậy thì chúng ta liền có thể biết được, không có quả đương nhiên không có nhân, có nhân liền có quả. Thế Giới Cực Lạc toàn là Bồ Tát, trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư trời người cũng là Bồ Tát, hơn nữa đều là pháp thân Bồ Tát. Hoàn toàn là oai thần gia trì của 48 nguyện, khiến mỗi một chúng sanh sanh đến Thế Giới Cực Lạc đều làm A Duy Việt Chí Bồ Tát. A Duy Việt Chí là bất thoái chuyển. Nguyên Hiểu Sư ở chỗ này nói rất hay, “tiên vi phàm phu”, A Di Đà Phật phổ độ chúng sanh trước độ phàm phu, vì sao vậy? Vì họ quá khổ rồi, họ có nhu cầu bức thiết, “kiêm vi tam thừa thánh nhân”, sau kèm thêm tam thừa thánh nhân là chỉ Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát. Quyền Giáo Bồ Tát chính là Bồ Tát chưa minh tâm kiến tánh, nên thứ tự độ thoát họ là ưu tiên.

“Khả kiến, Tịnh Độ tông chi diệu, thủ vi phàm phu đắc độ dã”[21]:

Chúng ta đọc được câu này rất hoan hỉ. Vì sao vậy? Chúng ta có phần rồi, chúng ta là phàm phu, A Di Đà Phật độ chúng sanh đem chúng ta để ở hàng ưu tiên một. Trên kinh Vô Lượng Thọ đã nói tuyệt đối không phải là lời giả dối, chắc chắn có thể tin tưởng, chúng ta nhất định phải tranh thủ. Cái đoạn phía sau nói:

“tha lực diệu pháp, thiện hộ hành nhân”[22]: Cái đoạn này chúng ta đem nó giản hoá rồi, chính là trong chú giải nói:

“mạt thế tu hành, đa chư chướng nạn[23]: Mạt thế chính là ngay hiện tại, chướng nạn rất nhiều, khó khăn trùng trùng, ngoài ra còn có “ấm ma can nhiễu”[24], có một số chúng ma chúng ta có thể cảm giác được, có một số không cảm giác được. Hiện tại cái thế gian này, có rất nhiều đồng tu đều cảm giác được làm việc tốt, khó, vô cùng khó khăn, bạn đối tốt với họ họ không tiếp nhận, họ hoài nghi bạn. Vì sao? Vì họ cho rằng bạn đối với tôi tốt như vậy, khẳng định bạn có ý đồ gì với tôi, có mục đích gì, nên họ thảy đều muốn tránh đi, nghĩ hết cách để chướng ngại bạn, không thể tiếp nhận. Nhưng bạn muốn làm việc xấu thì rất dễ dàng, người giúp bạn làm rất nhiều, làm việc xấu thuận buồm xuôi gió không có chướng ngại gì. Chúng ta gặp được là thời đại như vậy, nếu bạn không có công phu nhẫn nhục tương đối thì bạn không thể thành tựu được gì.

Tôi xuất gia, ban đầu vốn không có ý xuất gia, Đại sư Chương Gia khuyên tôi xuất gia. Tại vì sao ngài khuyên tôi? Tôi ở Đài Loan không có nhà, không có cái lo về sau, chỉ có một mình, lão sư khuyên tôi xuất gia, muốn tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài bảo tôi xem “Thích Ca Phổ”, “Thích Ca Phương Chí”, hai loại này là từ trên kinh Phật tiết lục ra Truyện ký của Thích Ca Mâu Ni Phật. Lão sư nói với tôi “con phải học Phật, trước tiên phải nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật, nếu con không nhận biết ngài, con sẽ đi sai đường”. Còn người hiện tại nói bạn sẽ đi đường vòng. Tôi nghe lời nói này rồi thấy rất có đạo lý, học Phật nhất định phải nhận biết đối với Phật. Sau khi đọc rồi mới phát hiện, Thích Ca Mâu Ni Phật không phải là tôn giáo, thế mà hiện tại đem nó gọi là tôn giáo, đây chính là sai lầm, đây chính là Ma chướng.

Phật giáo truyền đến Trung Quốc cũng không phải tôn giáo, nó rất giống với nhà Nho của Trung Quốc, là một học phái, là một loại giáo dục. Ngày nay chúng ta gọi Nho là giáo dục Khổng Mạnh, vậy thì Phật giáo là giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật. Cho nên đối với xưng hô của Phật giáo tôi gọi là giáo dục Phật đà, tôi cho rằng nó không là tôn giáo, vì trong tôn giáo điều kiện thứ nhất đó là nhất định phải có một tạo vật chủ, thần sáng tạo vũ trụ, còn trong Phật giáo thì không có. Trong Phật giáo cao nhất gọi là Phật đà. Phật đà là ý nghĩa gì? Người giác ngộ, cùng rất gần với ý nghĩa chữ “thánh nhân” trong thánh nhân của Trung Quốc. Chữ “thánh” này của Trung Quốc chúng ta chính là tường tận đạo lý, cùng sự tướng của vũ trụ nhân sanh, đây gọi là thánh. Thánh nhân, họ không phải thần, họ cũng không phải là tiên nhân, hay nói cách khác họ là người tường tận thấu đáo đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Còn gọi là Phật đà, từ trên mặt chữ dịch thành ý nghĩa Trung văn là “giác giả” hay chính là người giác ngộ. Vậy nó làm sao có thể biến thành tôn giáo được?

Thế nhưng hiện tại Phật giáo chân thật biến thành tôn giáo rồi. Kinh sám, pháp sự, đều vì người chết phục vụ. Năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật còn ở đời, giảng kinh dạy học, thành lập lớp dạy học là vì người sống mà phục vụ, không hề nghe nói vì người chết phục vụ. Sau khi ngài khai ngộ, giảng kinh nói pháp 49 năm. Ngài lập lớp, nếu dùng lời hiện tại mà nói, là ngài có kế hoạch, có giáo học khoa hệ, trước lập tiểu học, tiếp theo lập trung học, lại lập đại học, lập  Sở nghiên cứu, ngài là như vậy mà mở lớp. Bạn xem cả đời ngài, sau khi khai ngộ ở Lộc Dã Uyển giảng Tứ Đế, giảng “Kinh A Hàm” 12 năm, 12 năm này chính là tiểu học. Sau khi 12 năm A Hàm kết thúc, ngài giảng Phương Đẳng 8 năm, Phương Đẳng giống như trung học, phía trước thông tiểu thừa, phía sau thông đại thừa, cũng chính là lớp trù bị của đại thừa (đại thừa giống như là đại học), đây là trung học, đây đều thuộc về giáo dục nền tảng. Tiểu học, Trung học tổng cộng là 20 năm, tiểu học 12 năm, trung học 8 năm. Còn đại học đây chính là ngài giảng Bát Nhã, đại học 22 năm. Đương nhiên với 22 năm, thời gian dài đến như vậy khẳng định đây là bộ phận chủ yếu nhất mà Thích Ca giáo học là Bát Nhã là trí tuệ. Sau cùng 8 năm ngài giảng Pháp Hoa, đó giống như là Sở nghiên cứu, đem phía trước thảy đều quy về nhất thừa. Phía trước bạn thấy, tiểu thừa, đại thừa, đến sau cùng Pháp Hoa quy nhất, gọi là nhất thừa. Nhất thừa là cái gì? Mục tiêu sau cùng đều là hy vọng mọi người mỗi mỗi đều chứng được Bát Niết Bàn. Đây là lấy được bằng tốt nghiệp. Bát Niết Bàn là tiếng Ấn Độ, dịch thành ý nghĩa Trung văn là “viên tịch diệt độ”. Diệt cái gì? Phiền não, sanh tử thảy đều diệt hết rồi. Không sanh không diệt, đó là Niết Bàn, cũng chính là siêu việt sáu cõi, siêu việt mười pháp giới. Cho nên nó đích thực là giáo dục.

Tôi vào cửa Phật là từ cửa triết học mà vào. Từ trên triết học nhận biết Phật pháp, cho nên lão sư muốn tôi xuất gia, muốn tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, việc này tôi rất có hứng thú. Tôi tuy là cả đời phiêu bạt, Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời cũng rày đây mai đó, Thích Ca Phật cả đời không có đạo tràng, nửa ngày ăn một bữa, dưới gốc cây ngủ một đêm. Bạn phải ghi nhớ dưới gốc cây ngủ một đêm, ngày hôm sau phải đi đến nơi khác, không ở nơi đó nữa. Cái này biểu thị cái gì? Biểu thị hoàn toàn buông xả. Ta ở dưới gốc cây này qua một đêm, gốc cây này rất lớn, tàng cây rất tốt, ngày mai, ngày mai ở tiếp chính là tham luyến rồi. Ta ngày mai đổi một nơi khác, không ở đó nữa, chỉ ở một đêm, không hề có chút tham luyến đối với hoàn cảnh, một mực bình đẳng đối đãi, vậy thì đúng rồi.

“Ma”. Hiện tại Ma quá nhiều rồi, nơi nào cũng đều có, vô cùng rõ ràng cảm xúc được, vậy phải làm sao? Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy chúng ta “bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh giới, nhược tác thánh giải, tc thọ quần tà”[25]. Cùng tiếp xúc với họ, cũng không nên đắc tội với họ, họ nói cái gì, nghe rồi thì thôi, đừng để trong tâm thì đúng, nếu bạn đem những gì họ nói để vào trong tâm, thì bạn sai rồi, bạn liền nhận quần tà.

“Khả kiến, hành nhân sảo hữu chấp trước, tiện thất chánh kiến, tức nhập ma đồ, cầu thăng phản giáng, thậm chí đọa nhập Nê Lê”[26]

Phật đã dạy chúng ta cái gì để vào trong tâm thì ta để, ngoài Phật dạy ra nghe được rồi, đều không nên để vào trong tâm, công phu chân thật đến nơi. Lão Hoà Thượng Hải Hiền thị phạm cho chúng ta xem, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra thảy đều buông xả, đều không để ở trong tâm, bao gồm cả “Kinh Vô Lượng Thọ” cũng không để ở trong tâm. Chúng ta muốn học nó, dùng nó để làm công cụ, giúp chúng ta nhận biết càng rõ ràng càng tường tận, nhưng không thể để vào trong tâm, để vào trong tâm sai rồi. Chỉ cho phép để vào tâm một câu A Di Đà Phật. Lão hoà thượng đã làm thị phạm cho chúng ta, làm ra tấm gương đại triệt đại ngộ cho chúng ta.

Hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ học đến đây thôi. A Di Đà Phật!

 

Ghi chú:

  • Chữ viết nằm đứng: Nội dung của "Tịnh độ đại kinh khoa chú"
  • Chữ viết nằm nghiêng: Những lời trong các kinh Phật
  • Chữ viết nghiêng: Các câu của tổ sư, đại đức, hòa thượng, hoặc các câu cần trích đọan
  • Chữ viết gạch chân: Những niệm cần nên lưu ý
  • Các chú thích cuối trang không ghi danh người chuyển ngữ (“footnote”) lời trích dẫn trong “Tịnh độ đại kinh giải diễn nghĩa” lần thứ 1 - Năm 2010, chuyển ngữ “Bửu Quang Tự – Đệ tử Như Hòa”

 


[1] Trên đây đã nói rõ kinh này thích ứng rộng rãi các căn cơ, nhất là đối với lũ phàm phu chúng ta, càng có ân đức sâu đậm. Nay đang thời Mạt Pháp, chúng sanh phước huệ cạn mỏng, cấu chướng sâu nặng, chỉ cậy vào pháp môn phương tiện này, chỉ nhờ vào tín nguyện trì danh, công liền có thể vượt trội bao kiếp, vãng sanh Cực Lạc, nhanh chóng chứng lên Bất Thoái

[2] có ân đức sâu đậm

[3] Nay đang thời Mạt Pháp

[4] chỉ nhờ vào tín nguyện trì danh, công liền có thể vượt trội bao kiếp, vãng sanh Cực Lạc, nhanh chóng chứng lên Bất Thoái

 

[5] Nhược vô như thị vi diệu pháp môn, phàm phu hà năng độ thử sanh tử nghiệp hải, nhi đăng bỉ ngạn

[6] Vì thế, đấng đại bi từ phụ, đấng đạo sư hai cõi

[7] Nghĩ thương chúng ta,

[8] Nên mở ra pháp môn Tịnh Độ này, khéo léo chỉ bày hai cõi sướng và vui, nhằm khích động, cổ vũ chúng sanh đang mê muội chìm đắm

[9] Cõi này là đống lửa lớn,

[10] Cõi kia là ao thanh lương

[11] Sen báu trước mặt

[12] Núi đao sau lưng

[13] Do vậy, tự nhiên sanh khởi ý nguyện thù thắng,  

[14] Chán lìa Sa Bà, cầu sanh Cực Lạc

[15] đã sanh tín nguyện, lại còn trì danh hiệu, liền được độ thoát

[16] Sanh về cõi ấy, thấy Phật, nghe pháp, đắc vô thượng ngộ

[17] do hữu niệm mà nhập vô niệm,

[18] do vãng sanh mà khế nhập vô sanh

[19] đốn ngộ cái tâm này vốn bình đẳng

[20] Bốn mươi tám nguyện trước là vì phàm phu, sau là vì kèm thêm thánh nhân trong tam thừa

[21] Có thể thấy điều mầu nhiệm của Tịnh Độ Tông là làm cho phàm phu đắc độ trước tiên

[22] diệu pháp tha lực, khéo hộ trì hành nhân

[23] tu hành trong đời Mạt có lắm chướng nạn

[24] Ấm ma quấy nhiễu

[25] Nếu [thấy cảnh giới thù thắng hiện tiền] tâm chẳng nghĩ là đã chứng thánh thì cảnh giới ấy gọi là cảnh giới tốt lành. Nếu cho là ta đã chứng thánh quả, liền rớt vào các loài tà ma, ngoại đạo

[26] Đủ thấy hành nhân hễ có chấp trước đôi chút bèn mất chánh kiến, liền lọt vào đường ma, cầu thăng lên, đâm ra đọa xuống, thậm chí rớt vào địa ngục

/30
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây