Thế giới Tây phương ngày càng hâm mộ về những sắc thái tiến bộ, lợi lạc... của Phật giáo. Cựu Tổng thống Bill Clinton đã ăn chay, tọa thiền hàng giờ mỗi ngày và nhiều khoa học gia thượng thặng cũng đã nhận ra rằng tư tưởng Phật giáo đã giúp họ rất nhiều trong việc giải thích những hiện tượng khoa học và dẫn họ đến những tư tưởng mới và khám phá mới trong khoa học.
Quan niệm về: VŨ TRỤ, VẬT LÝ NGUYÊN TỬ, VI TRÙNG, TRỊ LIỆU Y KHOA..v..v.. của Phật giáo hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày naỵ
Trên 25 thế kỷ trước, Ðức Phật nói kinh A-Di-Ðà:
"Ông Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây có Ðức Phật Vô Lượng Thọ, Ðức Phật Vô Lượng Tướng, Ðức Phật Vô Lượng Tràng, Ðức Phật Ðại Quang, Ðức Phật Ðại Minh, Ðức Phật Bảo Tướng, Ðức Phật Tịnh Quang, các Ðức Phật như thế nhiêù như số cát sông Hằng, các Ngài đều ở tại Nước Các Ngài. Mỗi vị đang giáo hóa chúng sinh trên vô lượng hành tinh trong vũ trụ".
Năm 1960, giáo sư Drake đã đưa ra một công thức để tính số lượng những hành tinh có nền văn minh trong giải Ngân Hà:
N = T x Sht x Ssv x Sss x Svm x Ssll x Stt
Công thức này được giáo sư Drake trình bày ở kỳ họp hội đồng thiên văn quốc tế năm 1979 tại Montreal, Canada với đề tài Chiến Lược tìm kiếm sự sống trong vũ trụ.
Thật sự trong vũ trụ có hàng tỉ giải ngân hà và nói rằng số chư Phật đang giáo hóa chúng sinh tại nước Các Ngài nhiều như số cát sông Hằng không quá sự ước tính của các nhà thiên văn hiện tại.
Nói đến quan niệm về vũ trụ của Phật giáo chúng ta không thể bỏ qua kinh Hoa Nghiêm, phẩm thế giới thành tựu. Trong phẩm này, Bồ Tát Phổ Hiền tuyên thuyết của mười đặc tính của các thế giới: Nhân Duyên khởi, chỗ Trụ Nương, Hình Trạng, Thể tánh, Thanh Tịnh tánh, Trang Nghiêm tánh, Phật xuất hiện, kiếp trụ, kiếp chuyển biến sai biệt và vô sai biệt.
Trong 10 đặc tính của các thế giới, ta chỉ luận về Hình Trạng của các thế giới trong giải thiên hà, ngân hà. Chúng ta hãy đọc đoạn kinh sau đây: "Lúc đó, Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo chúng rằng: Thế giới có nhiều hình tướng sai khác hoặc hình như nước xoáy hoặc hình dạng như hoa..." Các nhà thiên văn có thể quan sát được trong các chòm sao như Letus, Pegasus và Hercules, hình sông là Giải Ngân Hà (Milky Way) và nhiều thiên hà khác, hình dạng như hoa là những khối tinh vân trong khoảng không gian liên-thiên-hà có chứa hàng tỷ ngôi sao... Chúng ta không thể tưởng tượng được ở một thời chưa hề có kính thiên văn. (Mãi đến thế kỷ XVII, Galileo (1564-1642) mới chế ra kính thiên văn) mà Ðức Phật và các vị Bồ Tát đã có những hiểu biết chính xác về vũ trụ như trên. Có lẽ vì khâm phục tri kiến của chư Phật và các vị Bồ Tát, nhà bác học lừng danh nhất thế kỷ XX này, Albert Einstein (1879-1955) khi nghiên cứu vũ trụ đã viết:
"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ (cosmic religion)... Bao gồm cả thiên nhiên vật lý và tinh thần... Phật giáo bao gồm các thứ đó... Nếu có một tôn giáo nào đáp ứng được yêu cầu của nền khoa học tân tiến, tôn giáo đó chính là Phật giáo”. (The religion of the future will be cosmic religion... cover both the natural and spiritual... Buddhism answers this description... if there is any religion that would cope with the modern scientific needs, it would be Buddhism).
Các nhà vật lý nguyên tử hiện đại cũng không khỏi kinh ngạc về tri kiến Phật về hạt nhân mà Đức Phật đã nói trong Kinh Bát Nhã: "Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc". Đoạn kinh này đã đựơc nhà bác học Niels Bohr (1885-1962, giải Nobel vật lý) làm sáng tỏ vì ánh sáng không là Hạt (particle) và cũng chẳng là Sóng (wave) mà nó vừa là Hạt vừa là Sóng, cả hai thứ bổ túc cho nhau, nó vừa Có vừa Không.
Nếu Hạt Sóng là yếu tố căn bản của ánh sáng thì các khoa học gia đang tìm thành phần nhỏ nhất của vật chất. Mãi đến cuối thế kỷ thứ XIX các nhà vật lý nguyên tử đã tìm được và khẳng định rằng thành phần cuối cùng của vật chất là Nguyên Tử và đặt tên mới bằng tiếng Hy Lạp (Atom) có nghĩa là không thể chia cắt được nữa. Danh từ mới này thật ra đã có từ thời Phật Thích Ca. Ở Ấn Ðộ, thời Phật, danh từ Paramãnu có nghĩa tương đương với nguyên tử. Một hạt bụi rất nhỏ mà ta thấy bay vởn vơ trong làn ánh sáng được gọi là Ratharenu. Một Ratharenu phân làm 36 Tajjaris. Một Tajjaris chia làm 36 Anus và một Anus chia làm 36 Paramãnus (nguyên tử), như vậy thì trong hạt bụi nhỏ có 46656 nguyên tử.
Ðến đầu thế kỷ XX, các nhà bác học bảo nguyên tử chưa phải là nhỏ nhất, nó được cấu tạo bằng những hạt nhỏ hơn: electron, proton, neutron . . .
Giữa thập niên 60, các nhà bác học lại tìm ra thêm những Phản Hạt của electron, proton, neutron... người ta gọi những hạt này là hạt cơ bản (elementary particle).Tới thập niên 70, khoa học tiến bộ hơn, có những máy gia tốc năng lượng rất lớn, họ đã tìm ra Hạt Quarks, 3 hạt quarks mới bằng một hạt cơ bản. Trong kinh Phật có một danh từ tương đương với Quark là hạt Lân Hư Trần (nghĩa là hàng xóm của Hư Không).
Các nhà vi trùng học còn kinh ngạc hơn khi biết được Đức Phật mà 25 thế kỷ trước đã thấy những vi sinh vật trong bát nước vừa múc lên từ miệng giếng và Ngài đã chú vãng sinh cho những sinh vật bé nhỏ này trước khi uống:
"Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng."
(Đức Phật đã nhìn thấy vô vàn -bát vạn tứ thiên-những sinh vật nhỏ trong một bát nước)
Mãi hơn 24 thế kỷ sau, bác sĩ Louis Pasteur (1822-1895) mới tìm ra những vi sinh vật này (vi trùng). Công trình nghiên cứu đã đưa Pasteur lên đài danh vọng: Ông được tặng thưởng huân chương Bắc Ðẩu Bội Tinh và được bầu vào Han Lâm viện Pháp quốc (Academie Francaise). Khi Ông mất, chính phủ Pháp đã tổ chức quốc táng.
Chúng ta thán phục Phật và các chư vị Bồ Tát đã thấy trước chúng sinh hàng bao thế kỷ: vũ trụ, vật lý, vi trùng v.v. nhưng chủ yếu của đạo Phật là làm cho chúng sinh bớt Khổ Ðau, rồi tiến tới An Lạc và Giải Thoát. Thực vậy, Ðức Phật đã tỏ ra vị thầy thuốc đại tài để chữa bệnh Ðau Khổ cho con Người. Bác sĩ Carl Jung (1875 - 1961) ông Tổ của ngành phân tâm học ca ngợi Phật.
"Công việc của tôi là chữa trị bệnh đau khổ về tâm thần. Chính điều này đã đẩy tôi làm quen với quan điểm và phương pháp của bậc Thầy vĩ đại của nhân loại mà đề tài chính yếu là sự trói buộc của đau khổ (My task was to treat psychic suffering and it was this that impelled me to become acquainted with the view and the methods of that Great Teacher of humanity, whose principal theme was the chain of suffering).
Trong những nhà bác học tên tuổi lớn thì có lẽ Albert Einstein là người viết về Đạo Phật nhiều nhất. Ðể kết luận tôi xin trích một đoạn văn ngắn của ông nói về Phật giáo:
"Phật giáo không cần duyệt xét quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan niệm của mình để chấp nhận khoa học bởi vì Phật giáo bao gồm khoa học và đồng thời cũng vượt qua khoa học. Phật giáo là một chiếc cầu nối liền tôn giáo và những tư tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật giáo đã kích thích con người khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính nó và trong môi trường sống chung quanh nó. Phật giáo siêu việt vượt qua thời gian. (Buddhism requires no revision to keep it up today with recent scientific finding. Buddhism needs no surrender its view to science, because it embraces science as well as goes beyond science. Buddhism is a bridge between religious and scientific thoughts, that the stimulates man to discover the talent potentialities within himself and his environment. Buddhism is timeless)