Tìm Kinh Sách
 
        Kinh Sách FULL

2500 Năm Phật Giáo

Lời giới thiệu.

Cuốn sách “2500 năm Phật giáo” ra đời từ năm 1956 và đến nay được tái bản sáu lần, lần gần đây nhất vào năm 1997. Tập tư liệu nghiên cứu công phu này, với sự tham gia của gần ba mươi học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn, v.v… chắc chắc sẽ giúp cho người đọc có được một cái nhìn toàn diện hơn và chuẩn xác hơn về một tôn giáo lớn đã trải qua một chặng đường dài lịch sử với bao thăng trầm, suy thịnh và cũng đã có một ảnh hưởng sâu đậm về nhiều mặt trên nhiều quốc gia châu Á và cả châu Âu, châu Mỹ…

Cuốn sách này với nhiều tư liệu phong phú, tỉ mỉ nhưng cũng rất độc đáo và đặc sắc, là một tư liệu hữu ích đối với những người muốn tìm hiểu về đạo Phật hoặc muốn có sự hiểu biết sâu hơn về một tôn giáo từ lâu đã quen thuộc với đa số chúng ta. Sách cũng giúp ích không nhỏ cho các công trình biên khảo, nghiên cứu có liên quan. điều đáng nói khác là cuốn sách được viết nên bởi số đông những chuyên gia trí thức không là Phật tử, nhưng tất cả đều bày tỏ sự cảm phục và tôn kính sâu xa đối với Đức Phật cùng tôn giáo của Ngài…
Rất tiếc TVHS không có bản vi tính hay phiên bản PDF. Quý độc giả có thể tìm mua tại các nhà sách.

Chương 5: IV

   Phật giáo đã bắt đầu không phải như là một tôn giáo mới mẻ và độc lập. Phật giáo là chi nhánh của một tín ngưỡng xưa của người Ấn Độ, có lẽ là một sự ly giáo hay một dị giáo, dù rằng trên nền tảng siêu hình và đạo đức thì Đức Phật đồng tình với tín ngưỡng mình đang thừa hưởng, nhưng Ngài chống lại một số kiểu hành trì đang thịnh hành thời ấy. Ngài không chấp nhận tính chất nặng phần nghi lễ của kinh Vệ Đà. Khi được yêu cầu thực hiện một số nghi lễ loại này, Ngài nói: “Nói là vì Chánh Pháp thì ta sẽ cử hành những nghi lễ cúng tế thông thường trong gia đình ta và đem lại kết quả đẹp đẽ, chứ ta không tán thành việc tế lễ; vì ta không muốn tìm hạnh phúc của mình bằng cách bắt kẻ khác phải chịu đau khổ”(11).

  Thật ra thì Áo Nghĩa thư cũng đã đặt sự sùng mộ tế lễ vào hạng thấp hơn niềm tin tâm linh của họ, nhưng họ không đã kích sự tế lễ ấy như là Đức Phật đã làm. Mục tiêu chính của Đức Phật ở đây là đem lại một sự cải cách trong việc tu hành, trở về với các nguyên tắc cơ bản. Tất cả những người gắn bó với cơ cấu chủ yếu của Ấn Độ giáo và cố gắng làm cho nó phù hợp với tiếng nói của lương tâm thức tỉnh đều được gọi là avatara. Trong Ấn Độ giáo, người ta cho rằng vị Thần Thượng đẳng Visnu có nhiều hiện thân khác nhau để thực hiện những mục tiêu khác nhau vì lợi ích của loài người. Đức Phật được tôn làm avatara vì đã làm cho Ấn Độ giáo rũ bỏ được những tế lễ đẫm máu cùng những kiểu hành trì sai trái, giúp cho tôn giáo này thoát khỏi nhiều hủ tục đã thâm nhiễm vào nó. Chủ thuyết avatara này giúp cho chúng ta vừa duy trì được tín ngưỡng ông cha mà vừa thực hiện được những cải cách cho nó. Bản tán tụng Purana của Ấn Độ giáo xem Đức Phật là một avatara của thần Visnu.

  Trong bài astapadi của Jayadeva (tập thi tụng Govinda), có nói đến nhiều avatara, coi Đức Phật là một avatara của thần Visnu, và có đoạn: Hỡi người có lòng nhân ái đã phản đối kinh Vệ Đà về chuyện giết mổ gia súc. Hỡi Kesava, trong hiện thân Đức Phật, vinh quang thay cho người, hỡi Hari, vị chúa tể của thế gian. Nindasi yajnavidher ahaha srutijatam Sadaya-hrdaya, darsita pasughatam Kesava-dhrta buddhasarira jaya jagadisa hare

   Đức Phật không lên án toàn bộ kinh Vệ Đà nhưng chỉ lên án những phần đòi hỏi sự giết mổ mà thôi. Jayadeva tóm tắt mười avatara trong bài kệ sau: Người ủng hộ Vệ Đà, nâng giữ vũ trụ, chống đỡ thế gian, tiêu diệt quỷ dữ, đánh bại Bali, bẻ gãy sức mạnh Sát-đế-lợi, chinh phục Ravana, làm ra cày bừa, trải rộng từ tâm, chiến thắng ngoại nhân. Xin kính lễ thần Krishna dưới mười tướng mạng. vedan uddharate, jagan nivahate, bhugolam udbibhrate, dailyan darayate, balim chalayate, ksatrasayam kurvate mlecchan murcchayate dasakrtikrte krisnaya tubhyam namah

   Đức Phật sử dụng di sản Ấn Độ giáo với sự sửa đổi cách thể hiện. Ngài làm cho hoàn chỉnh chứ không phá hủy. Đối với người Ấn Độ thì Đức Phật là một điển hình nổ bật của truyền thống tôn giáo nước này. Ngài để lại dấu chân trên mặt đất Ấn Độ và dấu ấn trong linh hồn của đất nước này với thói quen và niềm tin của nó. Trong khi giáo lý của Đức Phật mang nhiều hình thức khác nhau ở các nước khác cho phù hợp với truyền thống riêng của họ thì ở đây, trên quê hương của Đức Phật, giáo lý ấy đã hòa nhập vào và trở thành một phần không thể thiếu của nền văn hóa Ấn Độ. Đức Phật coi các Bà la môn và các Sa môn như nhau và hai dòng truyền thống này đã dần dần hòa quyện vào nhau. Trong một ý nghĩa nào đó thì Đức Phật là người tạo nên Ấn Độ giáo cận đại.

  Có những lúc, sau vô số những dò dẫm, nhân loại đã tự mình sáng tạo, nhận thức ra mục tiêu của cuộc sống một cách cao cả nhưng rồi lại để buông mình vào trong quá trình chầm chậm của sự phân rã. Đức Phật nhắm đến sự phát triển một kiểu người tự do mới, không mang những định kiến, quyết tâm xây dựng tương lai với sự tin tưởng vào chính bản thân, attadipa. Chủ nghĩa nhân văn của Ngài đã gặp phải những rào cản của chủng tộc và quốc gia. Thế nhưng, những bất ổn trong tình hình thế giới phản ánh những bất ổn trong tâm hồn con người. Lịch sử ngày càng trở nên toàn diện hơn. Vấn đề của lịch sử không phải là châu Âu hay châu Á, phương Đông hay phương Tây, mà la nhân loại ở mọi vùng đất và mọi thời đại.

  Mặc dù những chia rẽ về chính trị, thế giới vẫn là một khối, dù ta có muốn hay không. Số phận của mỗi người đều gắn với số phận của những người khác. Nhưng chúng ta, dù trong cá nhân hay tập thể, đang phải chịu sự kiệt quệ về tinh thần và sự gia tăng tính vị kỷ, điều này có vẻ làm cho lý tưởng vè một sự giao lưu thế giới thật khó hình dung. Theo chúng tôi cái mà chúng ta cần ngày nay là một điểm tâm linh về thế giới mà Ấn Độ, mặc dù bao nhiêu vấp váp khó khăn, vẫn đang bênh vực; một quan điểm có thể một lần nữa thổi qua cuộc sống, mở tung những cánh cửa của đời người. Chúng ta phải khôi phục lại lý tưởng về sự tự do tinh thần đã mất: atmalabhan na param vidyate. Nếu muốn có được hòa bình, chúng ta phải duy trì sự hài hòa nội tâm ấy, sự thăng bằng trong tâm hồn ấy, những yếu tố then chốt của hòa bình. Chúng ta phải làm chủ được mình, dù có mất đi những thứ khác. Tinh thần tự do, thanh thoát không đặt ra những ranh giới cho tình thương, nhìn thấy ở mọi con người một tia sáng thánh thiện và tự mình gánh chịu mọi điều thua thiệt vì hạnh phúc của loài người. Tinh thần ấy gạt bỏ mọi điều lo sợ, ngoại trừ cái sợ làm điều sai trái, vượt qua ranh giới của thời gian, của sự hoại diệt và tìm thấy quyền năng bất tận trong cuộc sống vĩnh hằng.
 
S.RADHAKRISHNAN
(Nguyên là Tổng Thống Cộng Hòa Ấn Độ)

Sarvepalli Radhakrishnan was an Indian philosopher and statesman who was the first Vice President of India and the second President of India from 1962 to 1967. Wikipedia
Born: September 5, 1888, Thiruttani, India
Died: April 17, 1975, Chennai, India
EducationMadras Christian College (1905–1906), Voorhees CollegeUniversity of Madras
AwardsBharat RatnaPeace Prize of the German Book TradeTempleton PrizeOrder of Merit
ParentsSarvepalli VeeraswamiSitamma


 

Ghi chú

(1) Khoảng tháng ba – tư Âm lịch - ND
(2) Chữ khắc tại Bodh Gaya ghi thời điểm Đại bát niết bàn, là năm 544 trước Công nguyên
(3) Theo kinh sách hiện nay thì ở đây còn thiếu một trường hợp thứ tư (gặp một tử thi sình thối khiến cho Thái tử mới nghĩ đến chuyện chết chóc, và có lẽ cần thêm vào như thế cho phù hợp với bốn lần ra khỏi cửa thành của Ngài –ND.
(4) Mã Minh, Phật sở hạnh tán, V, 17.
(5) Mã Minh, Phật sở hạnh tán, XI,59.
(6) Đọc thêm Áo nghĩa thư Taittiriya, II, 4: “nơi mà ngôn từ và tâm trí phải quay trở lại vì không đến được”. Trong Taittiriya Brahmins thì nói: “Ta đã có trước khi chư Thiên xuất hiện”, II, 8, 8.
(7) Trung Bộ kinh, XXIX
(8) Trung Bộ kinh, XXIX
(9) Tăng Chi Bộ kinh, IV.35; Trung Bộ kinh. XX.
(10) rudraksam tulasi-kastham, tripundram bhasma-dharanam yatrah snanani homas ca japah va devadarsanam na ete punanti manujam yatha bhuta-hite-ratih
(11) Phật sở hạnh tán, XI, 64.

 

Lời nhà xuất bản

Từ khi xã hội loài người hình thành và phát triển, tôn giáo đã là người bạn đồng hành không bao giờ vắng. Đó là nhu cầu tâm linh của con người đồng thời cũng là một bộ phận không thể tách rời trong lịch sử văn minh nhân loại. Bộ sách TÔN GIÁO và LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI không đề cập tới cái được và cái chưa được của tôn giáo mà chỉ trình bày nó như đang hiện hữu, đã ảnh hưởng tới văn hóa, kinh tế… thậm chí tới thể chế chính trị của các quốc gia hoặc dân tộc, từ xưa tới nay như thế nào. Xu thế toàn cầu kinh tế là bất khả kháng, chỉ có hiểu biết đầy đủ về mọi mặt các dân tộc và quốc gia trên thế giới mới giúp chúng ta hội nhập và phát triển mà không mất đi bản sắc dân tộc Việt Nam. Với mục đích trên, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bộ sách TÔN GIÁO và LỊCH SỬ VĂN MINH NHÂN LOẠI - Tập sách được viết riêng về Phật giáo.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN

 

Tham gia biên soạn

P.V. Bapat: M.A., A.M., Ph.D. (Harvard), nguyên Giáo sư Văn Hóa Ấn Độ Cổ đại. Pali và Phật giáo tại Viện Đại học Poona và Trường Cao đẳng Fergusson, Poona.
P.L. Vaidya: M.A. (Calcuta), D. Litt. (Paris), Biên tập viên hiệu đính, Viện Nghiên cứu Đông phương Bhandarkar, Poona.
C.V. Joshi: M.A., Nguyên Giáo sư Pali, Trường Cao đẳng Baroda.
B.Jinanada: M.A., Ph.D. (London), Phó Giáo sư Phạn ngữ và Pali, Khoa Nghiên cứu Phật giáo, Viện Đại học Delhi.
P.C. Bagchi (quá cố) M.A., D. Litt (Paris), nguyên Viện phó danh dự Viện Đại học Visva-Bharati, Santiniketan.

V.V.Gokhate: B.A., Ph.D. (Bonn), Giáo sư, Trưởng khoa Nghiên cứu Phật giáo Viện Đại học Delhi.
J.N. Takasaki: Ph.D. (Bonn), Giáo sư, Trưởng khoa Triết học Ấn Độ và Phạn ngữ, Viện Đại học Tokyo.
R.C. Majumdar: M.A., Ph.D., Sử gia.
Ankul Chandra Banejee: M.A., LL.B., Ph.D., Giáo sư Pali, Viện Đại học Calcutta.
S.Dutt: M.A., B.L., Ph.D. (Calcutta), Nguyên Phó Giáo sư Anh Văn, Viện Đại học Delhi.
Bhara Singh Upadhyaya: M.A., Giảng viên tiếng Hinđi, Ban Hinđu, Viện Đại học Delhi.
Bhadanta Anand Kausalyayana: Nhà văn nổi tiếng Ấn Độ.
Rahul Sankrityayan: (quá cố) Mahapandit, Tripitakacharya. K.A. Nilakanta Sastri: M.A., Giám đốc Viện Văn hóa Truyền thống, Madras.
T.N. Ramachandran: M.A., Nguyên Tổng giám đốc ngành Khảo cổ, Ấn Độ, New Delhi.
C. Sivaramamurti: M.A., Phụ tá Giám đốc Bảo tàng viện Quốc gia, New Helhi.
S.K. Saraswati: M.A. (Calcutta), phụ trách Viện Bảo tàng Di tích Victoria, Calcutta.
D.B.Diskalkar: M.A., Viện Nghiên cứu Đông phương Bhandarkar, Poona.
N. Aiyaswamy Sastri: Học giả, Giáo sư Nghiên cứu Phật giáo, Visva-Bharati, Santinikentan.
Lama Anagarika Govinda: Nhà văn gốc người Đức nổi tiếng về Phật giáo.
H.V. Guenther: M.A., Phật.D., gốc người Áo, nguyên Giáo sư Tạng ngữ và Phạn ngữ,
Visvavidyalaya, Varanasi. Padmanabh S. Jaini: M.A., Tripitakacharya, Giảng viên Pali, Trường Nghiên cứu Đông phương và châu Phi, Varanasi. Padmanabh S. Jaini: M.A., Tripitakacharya, Giảng viên Pali, Trường Nghiên cứu Đông phương và châu Phi, London.
U.N. Ghoshal: M.A., Ph.D. (Calcutta), Nguyên Giáo sư Sử học, Trường Cao đẳng Presidency, calcutta.
Tì kheo Sangharakshita: gốc người Anh, Nhà văn Phật giáo nổi tiếng, Chủ nhiệm sáng lập Chi hội Đại Bồ đề tại Kalimpong.
D. Valisinha: B.A., Tổng Thư ký Hội Đại Bồ đề Ấn Độ, Calcutta. 

/5
 

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây